Thứ Hai, 24 tháng 9, 2018

Sự tái sinh trong tình yêu vô điều kiện - Lời hứa của God

Trong bài "Sự hình thành và tiến hóa của nhân loại" [1], mình có nói rằng, theo Anthroposophy, trước khi vũ trụ ra đời, God đã có một kế hoạch vĩ đại, đó chính là tạo ra một nhân loại hoàn thiện như mình. Và thế là God tạo ra vũ trụ và nhân loại và tạo ra thời gian để con người tiến hóa trong đó. Trong bài đó mình nói về các chi tiết của sự tiến hóa nhân loại này.
Sứ mệnh tiến hóa của nhân loại, theo kế hoạch vĩ đại đó, chính là phát triển để biết yêu thương lẫn nhau, và yêu *vô điều kiện*. Từng mỗi con người trong nhân loại tương lai, cụ thể là phải đạt đến trước thiên niên kỷ 8 (chi tiết trong bài [1]), phải biết hy sinh *vì sự phát triển của người khác* (điều này rất quan trọng -- đòi hỏi sự hiểu biết về sự phát triển của con người [2] -- bởi vì hy sinh vì ham muốn của bản ngã của người khác không phải là yêu vô điều kiện mà thật chất là yêu bản ngã của mình – đây là cám dỗ của Lucifer).
Điều đó dẫn đến một "nghịch lý": nếu thật sự hy sinh -- vi sự phát triển của người khác trong tình yêu vô điều kiện -- thì mình còn gì? Chẳng lẽ God muốn ta bỏ mất ta trong sự hy sinh vì người khác? Như vậy thì nhân loại hy sinh cho nhau cuối cùng làm sao phát triển?
Trước khi nói về việc “nghịch lý” đó được giải như thế nào, mình cần đi đường vòng một chút.
Trong thế giới tâm linh, mỗi ý nghĩ là một thực thể độc lập có sự tồn tại riêng. Đây là một trong những quan sát nền tảng nhất của Anthroposophy được Steiner miêu tả kỹ trong các quyển nền tảng của ông. Mỗi ý nghĩ trong thế giới tâm linh là một “living thought”, trên con đường tiến hóa riêng của nó qua các quy luật vũ trụ, mà trong đó có luật logic. Qua các quy luật này mà một ý nghĩ biến hóa thành ý nghĩ khác, phát triển dần, hoặc suy thoái, và có thể đến một lúc có sức mạnh tạo hóa riêng, trong đó có việc tạo ra ý nghĩ khác. Vạn vật trong vũ trụ, tất cả thần linh, và mỗi con người, là một ý nghĩ đang tiến hóa hoặc đang suy thoái của God. Nên cả vũ trụ thật chất là một thực thể đang tư duy, “thinking being”, với đầy các ý nghĩ trong đó, và tất nhiên từ đó còn có cảm xúc, v.v.
Con người vì đang tạm thời mất hẳn sự liên lạc trực tiếp với thế giới tâm linh nên không thấy trực tiếp các thực thể ý nghĩ đó khi mình tư duy, mà chỉ cảm thấy cái bóng của nó trên não bộ. Hay nhìn theo một góc độ khác, các ý nghĩ trong não của một con người tư duy chỉ là phần thể xác của một ý nghĩ tâm linh (được tạo ra từ linh hồn của mình hoặc thực thể tâm linh khác), tương tự như việc linh hồn một con người đầu thai vào một thể xác. Ngày xưa (trước CN), trước khi có tư duy phát triển, não con người chưa chứa được các thể xác ý nghĩ như vậy, mà con người lúc đó còn giữ liên lạc trực tiếp với thế giới tâm linh, và qua cảm xúc của mình còn thấy hay nghe trực tiếp lời của thần linh. Nhưng dần dần, để cho con người phát triển được tự do và qua đó, trong tự do hoàn toàn, biết đặt niềm tin và đến với tình yêu vô điều kiện, các thần linh để cho sự liên lạc này mất đi và thay vào đó là phát triển tư duy con người.
Trên hành trình phát triển con người của mình, trên con đường khám phá tri thức để đến với tri thức của vũ trụ và qua đó quay về với thế giới thiêng liêng, con người phải vực dậy các thể xác ý nghĩ này trong tư duy của mình, biến nó từ “dead thought” thành “living thought” trong người mình. Việc đó làm được từ việc xây dựng các cảm xúc thiêng liêng mà mình nói đến trong bài “4 giai đoạn phát triển con người” [2]. Trái tim là nơi mà “dead thought” của con người được *tái sinh* lên tầm cao mới qua các cảm xúc thiêng liêng của mình. (Đây là một lí do chính tại sao giáo dục Waldorf nuôi dưỡng cảm xúc thiêng liêng có từ trí tưởng tượng.)
Trở lại với “nghịch lý” trên -- của sự hy sinh trong tình yêu vô điều kiện -- trong kế hoạch của God. Kế hoạch này có tên là “the Word”. Và như mình vừa nói, kế hoạch này – một ý nghĩ của God -- chính là một thực thể tâm linh, nằm trong God. Qua kế hoạch này, God tạo ra nhân loại và vũ trụ và vạn vật. Không có gì khác được tạo ra mà không qua kế hoạch này. Nên thực thể tâm linh này chính là “the Creative God”, hay có tên khác là “the Son God”, để phân biệt với “the Father God” mà ta hay gọi tắt là “God”. Như mọi thực thể tâm linh khác, mặc dù trong toàn vũ trụ chỉ đứng sau God, nhưng “Son God” / “the Word” cũng đang trên đường tiến hóa của mình. Sự tiến hóa của cả nhân loại và cả vũ trụ chính là sự tiến hóa của Son God (hay nói theo ngôn ngữ dễ hiểu hơn, là sự tiến hóa của kế hoạch của God, hay Father God).
Cũng như mình nói đến trong bài "Sự hình thành và tiến hóa của nhân loại" [1], từ sau khi có bản ngã, con người liên tục đi theo cám dỗ của Lucifer. Qua hai lần “đại thanh lọc” của God ở cuối hai thời kỳ Lemuria và Atlantis và bước sang thời kỳ Post-Atlantis, nhân loại vẫn tiếp tục thoái hóa. Và lần này, với sự cám dỗ mới của Ahriman [2,3], trong đó là cám dỗ của máy móc và kỹ thuật, con người đang trên đường tới thảm họa tự diệt vong hoàn toàn. Mình nói về việc này kỹ hơn trong bài [1].
Trong một bài giảng, Steiner có nói rằng, mãi đến tận các thời kỳ đầu (trước CN) của Post-Atlantis, các thần linh đã thấy trước sự diệt vong hoàn toàn đó và vẫn chưa biết làm thế nào cứu lấy nhân loại, trong bối cảnh nhất định không được ảnh hưởng đến sự phát triển tự do cá nhân của con người. Lúc đó, nhân loại nằm trong nguy cơ bị bỏ rơi bởi God. Thế giới tâm linh lúc đó do dự một thời gian dài không biết nên bỏ rơi nhân loại để làm lại, hay cứu nhân loại và đi tiếp, và nếu cứu thì làm sao cứu.
Và khi đó chính Son God / “the Word” đã ra tay. Một thực thể tâm linh thiêng liêng nhất của cả vũ trụ -- chúa của cả vũ trụ, chỉ đứng sau God -- đã đầu thai thành một người bằng xương bằng thịt tên Jesus. Jesus xuất hiện giữa nhân loại đang thái hóa – không phải chỉ đem đến những bài giảng đạo đức – mà quan trọng hơn vạn lần, đem đến và hy sinh toàn bộ sự tồn tại của mình cho nhân loại. Nên biết rằng Son God, từ đó trở về trước, không có sức mạnh nào (“utterly powerless”). Mặc dù chính là Creative God mà qua đó vạn vật được tạo ra, nhưng mọi sức mạnh, từ đó trở về trước, đều ở trong Father God. Nên khi Jesus hy sinh trên cây thánh giá trong tình yêu vô điều kiện cho nhân loại, đó là một cái chết bằng xương bằng thịt như cái chết của bao con người khác.
Nhưng tại sao việc hy sinh đó lại là hành động cứu nhân loại? Jesus, trong tay không có sức mạnh siêu nhiên nào, tin vào điều gì mà hy sinh chính mình? Đó là bởi vì với sự hy sinh đó – lần đầu tiên trong lịch sử vũ trụ một sự hy sinh toàn bộ sự tồn tại của mình trong tình yêu vô điều kiện xảy ra, một việc mà mọi thần linh cũng chưa bao giờ dám làm – God ban cho vũ trụ một lực tạo hóa mới mà trước đây chưa bao giờ có: lực của tình yêu (“the power of love”), và từ đó trở đi, Son God hay còn có tên khác là “the Word” hay là Christ, nắm trong tay lực tạo hóa này. Lực của tình yêu này, từ nay trở đi nằm trong tay của Christ, chính là lời hứa của God dành cho nhân loại, God’s Word: từ đây và mãi mãi trở về sau, mọi sự hy sinh trong tình yêu vô điều kiện sẽ được tái sinh lên một mức phát triển cao hơn. Sự tái sinh mà God ban cho Jesus Christ (mà trước đó ngay cả Jesus cũng chỉ tin chứ không nắm chắc) là lần thực thi đầu tiên của lời hứa này, và cũng là quyết định của God không bỏ rơi nhân loại mà từ đây và mãi mãi trở về sau, nhân loại quay trở về vị trí trung tâm của tiến hóa vũ trụ, như ban đầu God đã định cho.
Với sự hy sinh và tái sinh từ cái chết của mình, Christ hợp nhất sự tồn tại và tiến hóa của mình với sự tồn tại và tiến hóa của nhân loại. Từ đó và mãi mãi trở về sau, trong tự do và với tư duy của mình, từng mỗi con người có thể đặt niềm tin vào sự tái sinh này. Trên hành trình phát triển của mình [2, 1], một trong những lần đầu tiên một con người trải nghiệm sự tái sinh này chính là sự phục sinh từ “dead thought” thành “living thought” mà mình nói đến ở trên, khi con người đó có thể tự xây dựng lên trong lòng mình từ một ý nghĩ thiêng liêng thành một cảm xúc thiêng liêng mạnh mẽ. Đó xảy ra được chính là bởi vì, trên mỗi bước trong hành trình phát triển con người đó, Christ song hành và đồng thời cũng ngự trị trong trái tim người đó, cho dù trong toàn bộ thời gian đầu (“Lửa” và “Nước”) người đó chưa ý thức được chuyện đó.
Christ chính là sức mạnh phục sinh vượt qua mọi cái chết và mọi sự bế tắc trong cuộc sống (“In Christ, death becomes life”), từ nhỏ đến lớn, mà luôn luôn đến với bất kỳ người nào khi con người đó *chọn* giữ vững niềm tin vào sức mạnh đó trên hành trình phát triển của mình.
(Lưu ý quan trọng: mặc dù cái chết của Jesus Christ là cái chết của thể xác như bao cái chết của con người khác, nhưng sự tái sinh thì không phải là tái sinh của thể xác xương thịt như các nhánh của đạo Chúa hiểu lầm – việc này cực kỳ quan trọng để hiểu đúng về tính chất và ý nghĩa của sự phục sinh vượt qua thử thách lớn nhỏ trong đời sống hằng ngày, nhưng trong bài này mình không đi sâu vô. Ở đây mình chỉ chạm nhẹ đến đề tài quan trọng *trung tâm* này của Anthroposophy.)
Ai đọc kỹ những gì mình viết trong bài trước [1] và bài này có lẽ sẽ thấy, tại sao sức mạnh phục sinh đó là sức mạnh duy nhất mà mỗi con người có thể có để có thể vượt qua mọi cám dỗ ngày càng ghê gớm từ nay đến thiên niên kỷ 8 và trở thành nhân loại mới sau đó. Và cũng sau đó, cũng dùng chính sức mạnh tình yêu này mà nhân loại mới sẽ đưa vũ trụ hoàn thành sứ mệnh của nó, như mình nói trong bài [1]. Đây chính là lực mà đã, đang, và sẽ dần dần phục sinh trái đất đang chết này thành một Thiên Đường mới.
Mình đề nghị đọc thêm bài “Để đi đến trải nghiệm God, Christ, và Holy Spirit” [4] mà trong đó mình nói về các khía cạnh khác để làm rõ hơn.
[1] “Sự hình thành và tiến hóa của nhân loại” https://www.facebook.com/…/1011…/permalink/1377910672286901/
[2] “4 giai đoạn phát triển con người” https://www.facebook.com/…/1011…/permalink/1373318012746167/
[3] “Cám dỗ của Lucifer và vai trò của Phật Thích Ca” https://www.facebook.com/…/1011…/permalink/1374229339321701/
[4] “Để đi đến trải nghiệm God, Christ, và Holy Spirit” https://www.facebook.com/…/1011…/permalink/1365547310189904/

Anthroposphy cho ta một cách hiểu rất sâu sắc về những gì đã ghi trong Kinh Thánh (mà qua bao thế kỷ trong cám dỗ của các thế lực xấu đã bị bóp méo nặng bởi Thiên Chúa giáo và các tôn giáo khác). Liên quan tới những gì mình đã viết ở đây, mình trích một đoạn sau, từ “Gospel of Saint John” (phiên bản dịch hiện giờ trong Anthroposophy):
In the very beginning was the Word,
and the Word was with God,
and the Word was a divine being.
He was in the very beginning with God.
All things came into being through him,
and nothing of all that has come into being was made except through him.
In him was life,
and the life was the light of human beings.
And the light shines in the darkness;
and the darkness has not accepted it.
The true light that enlightens all human beings
was to come into the world.
It was in the world,
for the world came into being through it,
yet the world did not recognize it.
It came to men of individual spirit,
but those very individuals did not accept it.
To all, however, who did accept it,
it gave the free power to become children of God.
They are the ones who trustingly take its power into themselves.
They receive their life, not out of blood,
nor out of the will of the flesh,
and not out of human willing;
for they are born of God.
And the Word became flesh
and lived among us.
And we have beheld his revelation,
the revelation of the only Son of the Father,
full of grace and truth.
Of his fullness have we all received grace upon grace

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét