Thứ Hai, 21 tháng 9, 2020

Vận Mệnh Quốc Gia qua chiêm tinh

 Nguồn: Chòi Chiêm Tinh


CHIÊM TINH HỌC 401: XEM VẬN MỆNH MỘT QUỐC GIA QUA CHIÊM TINH HỌC


Hôm nay nhân ngày quốc khánh tại Việt Nam, tôi có một ngày nghỉ ngơi tĩnh dưỡng bằng cách trình bày một khía cạnh có lẽ rất mới mẻ với các bạn Việt Nam, nhưng là một chi nhánh lâu đời của Chiêm Tinh Học, đó là môn Chiêm Tinh Vĩ Mô (CTVM) hay còn gọi là "mundane astrology" trong tiếng Anh, chuyên về xem chiêm tinh cho một quốc gia, chính phủ hay các sự kiện quốc tế.  Từ "mundane" có nghĩa là "nhân thế" hay "trần tục" trong tiếng Việt, nhưng tôi thấy những từ này không áp dụng đúng cho mục tiêu của bộ môn này trong tiếng Anh, nên tôi tạm gọi nó là "Vĩ Mô", dùng để xem bao quát các việc và sự kiện lớn không chỉ thu nhỏ ở một con người (Vi Mô). Ở mục cuối cùng, tôi sẽ có 3 ví dụ về CTVM khi xem lá số cho Việt Nam, Trung Quốc và Mỹ.



GIỚI THIỆU VÀ KIẾN THỨC CĂN BẢN


Từ nhiều thời đại vua chúa xa xưa cho đến các chính quyền ngày nay trên thế giới, con người đã biết sử dụng Tử Vi và Chiêm Tinh Học như là những công cụ hữu ích để phục vụ cho việc trị dân lập quốc hay mang lại an cư thái bình cho thiên hạ.  


Việc xem ngày lành tháng tốt trong dân gian Việt Nam không phải là không có nguyên do. Trong Tử Vi Việt Nam, việc sử dụng người có mệnh Phá Quân (có sao Phá Quân tại cung Mệnh) để chế ngự người mệnh Thiên Tướng, hoặc ngược lại, hay người mệnh Tử Vi để kiểm soát người mệnh Cự Môn ... trong việc "điều binh khiển tướng", quản lý bộ phận, chính quyền, doanh nghiệp, hay trong các trận đánh quân sự có tính cách quyết định sống còn ... đã được nhiều chính trị gia và cố vấn nổi tiếng âm thầm sử dụng để đạt được mục đích mà họ muốn.  Khách quan mà nói, chính trị gia Hồ Chí Minh là một nhà nghiên cứu và sử dụng Tử Vi rất giỏi.  Ông chính xác là người tuổi Mão (1891), thành lập chính phủ và chế độ của ông vào năm Dậu (1945) và suốt những năm sau đó, tạo thành một trục Mão-Dậu định mệnh mà vận mệnh ông và chế độ ông tạo ra sau đó đều có những biến cố "năm tuổi" quan trọng và thăng trầm trong những năm Mão, Dậu: 1951, 1957, 1963, 1969, 1975, 1981, 1987, 1993, 1999, 2005, 2011 v.v... và các năm khó khăn đấu tranh trong trục Tý, Ngọ (thuộc bộ Tứ Sinh với Mão, Dậu).


Trong công việc, tuổi hay ngày thành lập của một công ty cũng có ảnh hưởng đến các nhân viên trong tập thể đó.  Nói cách khác, khi vào làm cho một công ty, nếu bạn "khắc tuổi" với "ngày sinh" của công ty đó thì công việc của bạn sẽ bôn ba, vất vả, mất mát, thất thoát, v.v... hiệu quả công việc sẽ không được như ý hoặc khó khăn, dù là có những thăng tiến nào đó.


Không như Tử Vi Việt Nam, trong CTVM, hầu như mọi sự kiện và thời điểm đều có thể được đem ra phân tích dưới dạng lá số: khai trương, thành lập hội nhóm, công ty, tập đoàn, tổ chức chính trị (nội các), quốc gia (quốc khánh), ngày tuyên thệ, nhậm chức, bầu cử, đám cưới, hôn ước v.v... Một Chiêm Tinh Gia khi xem những vấn đề này muốn đúng và chính xác đòi hỏi phải có cái nhìn bao quát và kiến thức rộng rãi, phân tích một cách khách quan và không thiên vị, thấy được đa phương diện của một vấn đề.  Cũng như lá số một con người, giờ giấc chính xác đến từng phút cũng rất quan trọng trong CTVM.



Thông thường, để xem vận mệnh cho một chế độ nào đó, chúng ta nhìn vào ngày quốc khánh chính thức được mọi người công nhận của quốc gia đó, như một "con người" có đầy đủ: ngày, tháng, năm, và cả "giờ sinh" và "nơi sinh".  Giờ sinh của quốc gia thường là giờ tuyên thệ của một buổi lễ long trọng.  Nơi sinh chính là nơi tuyên thệ lập quốc.  Một số nước như Mỹ có giờ sinh gây khá nhiều bàn cãi (July 2 hay July 4 ? Ngày ký kết ? Ban bố hay in ấn v.v...), vì quốc khánh của họ không phải cố định vào một ngày giờ nào cả, mà là một quá trình gồm nhiều ngày, nhiều tháng, thậm chí nhiều năm.  Ở những trường hợp như vậy, chúng ta sẽ nhìn vào ngày giờ mà đông đảo người dân nước đó ("the collective") công nhận.


Ngày quốc khánh của một quốc gia tượng trưng cho ngày sinh của một chế độ chính trị cho quốc gia đó.  Nếu chế độ bị lật đổ vì lý do gì, thì chế độ đó xem như đã "chết" và chúng ta xem tiếp ngày quốc khánh cho chế độ sau đó.  Trong một chế độ dân chủ thường sẽ có nhiều đời tổng thống, và ngoài việc xem chiêm tinh cho toàn bộ một chế độ nói chung ra, chúng ta có thể xem chiêm tinh cho từng đời tổng thống, nội các cũng như các thăng trầm của đời tổng thống đó (bắt đầu bằng ngày giờ tuyên thệ và nhậm chức hiệu lực chính thức) và đoán biết được vận mệnh của quốc gia đó.  Chúng ta có thể lấy phương pháp đồng tinh (Synastry) để so sánh lá số của đời vị tổng thống với lá số của chế độ để xem sự hạp nhau, mạnh yếu của đời tổng thống đó đối với chế độ đó như thế nào.  Ở mức độ nhỏ hơn, chúng ta cũng có thể so sánh lá số cá nhân của vị tổng thống đó với chế độ của chính ông, hoặc với ngày quốc khánh của quốc gia ông, để xem sự tương hợp và các mâu thuẫn, yếu kém trong thời đương nhiệm.


Ví dụ, hợp chủng quốc Hoa Kỳ có ngày quốc khánh là 4/7/1776, và chúng ta có thể dùng lá số của đời tổng thống đương nhiệm là ông Obama để so sánh sự thịnh suy, yếu kém hay thế mạnh của nhiệm kỳ ông làm việc đối với vận mệnh của nước Mỹ như thế nào v.v... Ngoài ra, không phải ngẫu nhiên mà nước Mỹ có ngày sinh nhật vào giữa tháng Cự Giải, bầu cử vào giữa tháng Bọ Cạp (dấu hiệu tam hợp 120° với Cự Giải) và tuyên thệ vào đầu tháng Bảo Bình.  Từ năm 1937 trở về trước, lễ tuyên thệ tổng thống luôn bắt đầu vào tháng Song Ngư (ngày 4/3) tam hợp chính xác 120° với ngày quốc khánh ở tháng Cự Giải.  Từ năm 1941 đến nay, các lễ tuyên thệ được tổ chức vào ngày 20/1, tức là ngày đầu tiên của tháng Bảo Bình.  Tất cả đều có những lý do sâu xa liên quan đến các nguyên lý của CTVM.


Trong lá số CTH của một quốc gia (dựa trên ngày quốc khánh) các hành tinh sẽ ảnh hưởng các bộ phận chính quyền và dân chúng như sau:



ẢNH HƯỞNG CỦA CÁC HÀNH TINH


Mặt Trời (Sun): Thủ Tướng, Tổng Thống, Nội Các chính phủ, vương triều và các quan chức, chánh án tòa án tối cao, và các lãnh đạo cao cấp đặc biệt


Mặt Trăng (Moon): công dân, thần dân, dân chúng và tất cả mọi chuyện có tính chất công cộng.


Thủy Tinh (Mercury): thế giới văn học, báo chí, bộ thông tin, xuất bản, đại sứ công vụ, công thương và thương mại, dịch vụ vận chuyển, lãnh vực truyền thông và kỹ nghệ thông tin.


Kim Tinh (Venus): những vấn đề liên quan đến phụ nữ, mức tăng dân số, các yếu tố liên quan đến hôn nhân và trẻ em.  Nghệ thuật, họa sĩ, nghệ sĩ và nhạc sĩ.  Các kiến trúc và phương tiện thể thao, giải trí, v.v... phục vụ cho thời bình hay giải quyết mâu thuẫn bằng ngoại giao.


Hỏa Tinh (Mars): quân đội, người lính và những tướng lĩnh quân đội hay hải quân xuất sắc nổi bật.  Chiến tranh, khủng bố, kiện cáo và mâu thuẫn trong kỹ nghệ và công nghiệp, đình công.  Thế lực đối lập.  Dịch vụ cứu hỏa, tội phạm phóng hỏa v.v...


Mộc Tinh (Jupiter): Thế giới tôn giáo, tâm linh và pháp luật.  Tôn giáo của quốc gia, các linh mục, thần thánh được tôn thờ.  Hệ thống pháp luật, các thẩm phán nổi bật, luật sư.  Các vụ điều tra trong nội bộ quốc gia.  Nhà băng, ngân quỹ, kho bạc, mức độ giàu có của một nước.


Thổ Tinh (Saturn): Những người già và dân số trưởng thành.  Tỷ lệ tử vong.  Dịch bệnh nguy hiểm đến tính mạng.  Chủ đất, nông dân, mỏ khoáng sản, than đá và các kỹ nghệ liên quan đến kim loại và khoáng chất.  Quốc tang, bất mãn, bi kịch và sầu thảm chung của công dân.  Tài sản quốc gia.


Thiên Vương Tinh (Uranus): Bạo động và bùng nổ căng thẳng chính trị. Tình trạng hỗn lọan vô chính phủ. Tư tưởng thuộc phe cánh hữu, nền kinh tế tự do, chủ nghĩa phát-xít và các xu hướng thiên về chủ nghĩa cá nhân, chia rẽ, phản ứng phi chính trị, biểu tình, trả đũa.  Sự phân hóa giữa các thành phần trong xã hội, phe ủng hộ và phe chống đối.  Thành tựu và khám phá trong khoa học. 


Hải Vương Tinh (Neptune):  Chủ nghĩa xã hội, cộng sản và các tư tưởng chính trị thuộc phe cánh tả.  Cách mạng, lý tưởng, xu hướng thời đại, nghệ thuật.  Cũng liên quan đến các băng nhóm du đãng, kế hoạch bí mật "thâm cung bí sử", bất ổn chính trị, lầm lạc, thủ đoạn gây mê, tệ nạn nghiện ngập, bất công, phi đạo lý, lừa đảo, lũng đoạn, hối lộ, phí "bôi trơn", công ty giả mạo, thất thoát, thanh lý.  Vùng biển và sông nước.


Diêm Vương Tinh (Pluto): Thay đổi lớn, phân rã và hồi sinh.  Những khía cạnh thầm kín trong cuộc sống mà công chúng không thấy.  Cảnh sát chìm, mật vụ, điệp viên, tình báo, gián điệp.  Thế lực chính trị ngầm, băng đảng tội phạm có tổ chức, hệ thống nhà băng, cổ phiếu và hệ thống chứng khoán.  Vận động chính trị và lũng đoạn.



ẢNH HƯỞNG CỦA CÁC CUNG HOÀNG ĐẠO ĐỐI VỚI MỘT QUỐC GIA


Dương Cưu (Aries): quốc gia nhìn một cách tổng thể, hình ảnh dân tộc, và cách quốc gia đó thể hiện ra thế giới như thế nào


Kim Ngưu (Taurus): Kinh tế


Song Tử (Gemini): Giáo dục, xuất bản thường nhật, tổng cục bưu điện, truyền hình, truyền thanh, vận tải, viễn thông nói chung và ngành khoa học


Cự Giải (Cancer): Đất đai, nhà cửa, nông nghiệp và phe đối lập trong Nghị Viện


Sư Tử (Leo): Mọi hình thức giải trí vui chơi, thể thao cấp quốc gia, và trẻ em


Xử Nữ (Virgo): Phe phái cánh tả, thành phần lao động, sức khỏe cộng đồng, lực lượng vũ trang và dịch vụ công cộng


Thiên Xứng (Libra): Vấn đề đối ngoại nói chung, chiến tranh và các hiệp định


Bọ Cạp (Scorpio): Quan hệ tài chính với nước ngoài, tội phạm và an ninh xã hội


Nhân Mã (Sagittarius): Luật pháp, tôn giáo, quan niệm tâm lý và khoa học kỹ thuật


Ngư Dương (Capricorn): Lãnh đạo của tiểu ban, chính phủ và danh tiếng của quốc gia


Bảo Bình (Aquarius): Nghị viện, đặc biệt là Hạ Nghị Viện và chính quyền địa phương


Song Ngư (Pisces): Nhà tù, bệnh viện, trung tâm dưỡng lão, các hội từ thiện, các nhóm bí mật, thiền viện và trường thần học tôn giáo



ẢNH HƯỞNG CỦA CÁC CUNG NHÀ ĐỐI VỚI QUỐC GIA


Cung Nhà thứ 1 (bao gồm điểm Mọc / Ascendant):  Toàn bộ lãnh thổ quốc gia và cư dân, tinh thần dân tộc (thể hiện với các quốc gia khác), tình trạng chung về cơ cấu kinh tế và bản sắc văn hóa xã hội, sự thịnh vượng và sức khỏe


Cung Nhà thứ 2: Nền kinh tế và sự thịnh vượng của quốc gia, Bộ Tài Chính, thâu nhập, mọi giá cả và hoạt động liên quan đến sản xuất tiền tệ như ngân hàng, thị trường chứng khoán, các công ty tài chính, thị trường tiền tệ và thương mại


Cung Nhà thứ 3: Mọi phương tiện vận chuyển đi lại trên lãnh thổ như đường sắt, đường xá, đường sông, xe v.v... Mọi phương tiện truyền thông và phân tán tin tức như bưu điện, hệ thống viễn thông, đài tin tức, internet, điện thoại, fax, báo chí, tạp chí, xuất bản thường niên, v.v... và cũng liên quan đến các nước lân cận.


Cung Nhà thứ 4: Lãnh thổ, tài nguyên, khoán sản, công trình xây dựng, ruộng đồng, đất đai cùng các chủ đất và nhân viên làm việc trên đó.  Là những bộ phận nhân dân đấu tranh với một chính quyền hay vương triều, chủ nghĩa tự do tương phản với chủ nghĩa quý tộc, và cũng là phe đối lập trong Nghị Viện.  Những điều xấu trong cung này sẽ ảnh hưởng trực tiếp đến chính phủ đương thời vì nó đối chọi với cung Nhà thứ 10.


Cung Nhà thứ 5: Rạp hát, rạp chiếu phim, công viên, khu du lịch, các công trình công cộng và dịch vụ giải trí, thư giãn, nghỉ ngơi.  Mức độ gia tăng dân số, trẻ em, vấn nạn tình dục, thể thao, cờ bạc và cá độ.


Cung Nhà thứ 6: Y tế xã hội, dịch bệnh, dịch vụ chăm sóc sức khỏe, công chức, công nhân viên, công đoàn thương mại, nhân viên, người lao động v.v...


Cung Nhà thứ 7: Các vấn đề đối ngoại, quan hệ với các nước xung quanh dù là thân thiện hay thù nghịch, chủ trương chính trị hay thương mại, và cũng là mức độ tăng trưởng hôn nhân / ly dị.


Cung Nhà thứ 8: Mức độ tử vong của dân số.  Loại người chết và các dịch vụ mai táng, tang lễ.  Quan hệ tài chính, nợ quốc gia và đầu tư với nước ngoài.


Cung Nhà thứ 9: Văn hóa, tư duy của dân tộc.  Hoạt động chuyên chở, chuyển phát, giao thông hàng hải, hàng không và đường dài nói chung liên quan đến dân sự hay thương mại.  Viễn thông đường dài hay quốc tế.  Quốc giáo, tôn giáo, hệ thống tâm linh, lãnh đạo tôn giáo.  Bộ luật dân sự hay hình sự, hệ thống giáo dục sư phạm, các đại học, giáo sư, giáo viên.  Viện nghiên cứu khoa học, triết học, bộ văn hóa và thông tin, giới truyền thông.


Cung Nhà thứ 10: Vua chúa, thủ tướng hay tổng thống.  Chính phủ cầm quyền, những người nổi tiếng thuộc hoàng gia, hay các ngành nghề chính.  Sĩ diện và uy tín quốc thể, quyền lực, thương mại quốc gia, mức độ tăng trưởng việc làm cho công dân.


Cung Nhà thứ 11: Nghị viện.  Chính quyền địa phương thuộc làng, huyện, xã, tỉnh ... Bạn bè quốc tế.  Ban hành luật pháp và tình trạng phúc lợi xã hội.


Cung Nhà thứ 12: Nhà tù, trung tâm cai nghiện, cải tạo, mức độ tội phạm, điệp viên, tình báo, kẻ thù bí mật của quốc gia dù là trong nước hay nước ngoài.  Bệnh viện, nơi cư trú, các viện hay trung tâm dành cho những người bệnh tật, già yếu hay cưu mang hưởng phúc lợi trong xã hội.


Hiện nay có rất nhiều cách để xem CTVM cho một quốc gia.  Ngoài việc xem ngày quốc khánh (để xem một chế độ chính phủ), một cách phổ thông khác là dùng hệ thống trắc địa giới (geodetic system) để quy tọa độ quốc gia ra "giờ sinh" để suy ra cung Mọc (Ascendant) và vị trí tương quan của các hành tinh trong các cung Nhà, lập được lá số chung cho cả quốc gia hay địa phương đó dù là ở thời điểm nào trong lịch sử.



CÁC VÍ DỤ VỀ CHIÊM TINH VĨ MÔ


1) Việt Nam


Dưới đây là lá số của nước Cộng Hòa Xã Hội Chủ Nghĩa Việt Nam, được thành lập vào ngày 2/9/1945, tại Hà Nội, lúc 15:30 chiều (giờ tuyên thệ) bởi lãnh tụ Hồ Chí Minh.



Là tuổi Xử Nữ, nhưng CHXHCNVN có điểm Mọc là Ngư Dương cho thấy đây là chế độ luôn muốn thể hiện sự "quan trọng hóa" trong mọi vấn đề lớn nhỏ.  Họ năng động, cần cù, siêng năng và rất cạnh tranh trong công việc.  Đối với người khác, họ có thể là ví dụ của một thành công "qua đêm", nhưng đối với họ, đó là kết quả của một quá trình làm việc lâu dài.


Điểm Mọc Ngư Dương còn cho thấy chế độ được sinh ra trong thời buổi khó khăn, loạn lạc.  Những năm đầu mới thành lập, họ sẽ yếu ớt, mong manh, nhút nhát, cô lập trên chính trường thế giới, nhưng càng về sau, họ sẽ trở nên mạnh mẽ, cứng cáp và ngọt ngào thân thiện hơn.


Là dân tộc luôn để ý đến "sĩ diện", sự tôn ti trật tự của sinh hoạt xã hội, xem trọng vật chất (và sự thành công về vật chất), có "bệnh thành tích" và dành rất nhiều thời gian và nhân lực để nhằm quản lý tài sản (hệ thống hành chính).  Mặt Trời Xử Nữ và điểm Mọc Ngư Dương là những người hay thích chê bai, chỉ trích, săm soi, nhỏ nhặt tuy nhiên dễ rơi vào tình huống "chỉ thấy cái cây mà không thấy cả khu rừng".  Họ luôn cảm thấy bất an và thường có những chính sách kỳ lạ hoặc thậm chí tiêu cực hủy hoại chính mình nhằm để để kiềm chế cảm giác bất an này.  Họ cũng luôn muốn tạo ra một hình ảnh thành công, vui vẻ và tự tin với thế giới để trấn áp cảm giác bất an đó trong nội bộ.  Điểm Mọc Ngư Dương còn là một chế độ / dân tộc khá cẩn trọng, nghi ngờ đôi khi trở nên quá chậm chạp và "quan liêu" trong việc đưa ra những chính sách kịp thời trong xã hội.  Họ cũng rất cần một hậu thuẫn đối tác mạnh mẽ để giúp họ bảo vệ lãnh thổ và dân chúng, hơn là tự phát huy nội lực chính mình.


Điểm Mọc Ngư Dương với tuổi Xử Nữ cũng cho thấy đây là một chế độ khuyến khích sự siêng năng chăm chỉ, chi tiết, và lắm khi sinh ra những thủ tục hành chính rườm rà, phức tạp. Juno trong Xử Nữ cho thấy đây là xã hội thường có những hôn nhân xảy ra trong đồng nghiệp, đồng đội, công việc khi động chạm làm chung với nhau.  


Hỏa Tinh trong cung Nhà thứ 6 thuộc Song Tử là những người chăm chỉ, nhấn mạnh về vấn đề lao động chân tay và đôi khi rất "thủ công" trong công việc, và rất chủ động và/hoặc gặp nhiều vấn đề về y tế, sức khỏe và để ý đến chi tiết.  Hỏa Tinh trong Song Tử cũng cho thấy một quân đội, cảnh sát thông minh với mạng lưới tình báo và thông tin nhanh nhạy, chi tiết, tuy nhiên dễ bị thay đổi hay phân tán lập trường, lẫn lộn giữa "chánh" và "tà".  Ảnh hưởng của Thiên Vương Tinh trong Song Tử càng làm phức tạp hỗn loạn thêm các vấn đề liên quan đến cung Nhà thứ 6, nhất là sức khỏe, y tế.  Song Tử làm cho các công việc trong đời sống người dân trở nên tính chất "mánh mung", "thời vụ", "bao đồng" hơn là những gì tập trung lâu dài.  Hỏa Tinh trong Song Tử thích tuyên truyền, sử dụng các phương tiện truyền thông, hay dùng "võ mồm", băng rôn, khẩu hiệu ... để giải quyết vấn đề !


Mặt Trăng trong cung Cự Giải và cũng thuộc cung Nhà thứ 7 cho thấy người dân trong chế độ này sống bằng "tình cảm", "hồi tưởng ký ức" là chính, tuy nhiên, ảnh hưởng của Thổ Tinh giới hạn sự thể hiện đúng mức hay bài bản của "tình cảm" hay "ký ức" này.  Thực tế là đã có rất nhiều đài kỷ niệm, sách báo tài liệu hồi tưởng v.v... được xây dựng lên ngày nay.



Kim Tinh trong Sư Tử cho thấy chính phủ cũng như người dân sống trong chế độ này dù là thâu nhập như thế nào thì vẫn có lối xài tiền, giải trí và ăn chơi xa hoa, thuộc dạng "show-off" (Sư Tử), nhất là đối với đối tác làm ăn, bạn bè, hôn nhân, ngoại giao.  Diêm Vương Tinh trong cung thứ Bảy nhấn mạnh điều này, cho thấy họ nhấn mạnh về việc thể hiện hình ảnh quyền lực với người đối diện, các nước láng giềng hay trong vấn đề hôn nhân.  Sự hội tụ của Kim Tinh và Thổ Tinh trong cung Nhà thứ 7 cho thấy những gì họ làm rốt cuộc chỉ làm giàu và có lợi cho các đối tác, các nước ngoài hơn là cho chính họ, và đồng thời lãnh cảm với các vấn đề lãnh thổ, đất đai trong nước (do Thổ Tinh ức chế).


Mộc Tinh (chủ tinh cung Nhà 3 và 12) trong cung Nhà thứ 10 cho thấy đây là một chế độ và thế hệ người dân có tính "vọng ngoại", đôi lúc sinh ra "mơ tưởng" và "hão huyền" vì có ảnh hưởng Hải Vương Tinh đồng cung.  Kết hợp với Mặt Trăng trong cung Nhà thứ 7, tính "vọng ngoại" gia tăng khá mạnh trong tâm thức người dân dưới chế độ này.  Đất nước chủ trương phát triển thành công vào ngành du lịch và xuất nhập khẩu liên quan đến hàng hải, biển, sông nước, thủy sản, ... (Hải Vương Tinh) hay tàn tích chiến tranh (Thiên Xứng).  Tuy nhiên, vì hội tụ Kim Tinh, Thổ Tinh ở cung Nhà thứ Bảy, các ngành này thường làm giàu cho các công ty nước ngoài vào đầu tư hơn là cho người dân trong nước, và dù là nếu người dân được giàu thì dòng tiền tệ sẽ chảy ra nước ngoài nhiều hơn là trong nước.


Diêm Vương Tinh trong cung Nhà thứ 8 thuộc Sư Tử cho thấy vấn nạn nạo phá thai do sex và sinh hoạt ăn chơi bừa bãi, hoặc chết chóc nhiều do chiến tranh.  Vị trí này cũng cho thấy Việt Nam là một quốc gia "đàn em", dễ "mang nợ", dễ bị chi phối hay bị "giật dây" bởi các thế lực nước ngoài.


Nhìn tổng quát lá số này, chúng ta thấy các hành tinh hội tụ ở Tứ Góc Cung thứ 3 (gồm các cung Nhà 7, 8 và 9), cho thấy họ có tính "hội đồng" dễ bị chi phối bởi các nước ngoài, hơn là tự phát triển nội lực cho chính họ.


...



2) Trung Quốc


Dưới đây là lá số của nước Cộng Hòa Nhân Dân Trung Hoa, được thành lập vào ngày 1/10/1949, tại Bắc Kinh, lúc 15:01 chiều (giờ tuyên thệ) do chủ tịch Mao Trạch Đông.



Thoạt nhìn đã thấy ngay đây là một chính phủ có chính sách gây hấn quân đội (Hỏa Tinh) với các nước đối tác và xung quanh, do có Hỏa Tinh trong cung Nhà thứ 7. Về ngân sách quân đội, TQ đứng thứ 2 trên thế giới sau Mỹ.  Diêm Vương Tinh trùng tụ nhấn mạnh ý nghĩa này.  Họ cảm thấy việc gây hấn bên ngoài đó mang lại một sự yên ổn bên trong.  Họ không ngừng kết hợp và tạo dựng những thế lực và đối tác mạnh mẽ nhưng ngầm để thực hiện những hoạch định tương lai của họ.  Họ không từ bỏ bất kỳ điều gì để đạt được tham vọng này.


Như Việt Nam, Diêm Vương Tinh trong Sư Tử thuộc cung Nhà thứ 7 cho thấy vấn nạn nạo phá thai trong thời bình, sinh hoạt ăn chơi bừa bãi, hoặc chết chóc nhiều do chiến tranh, hay nội chiến.


Tuổi Thiên Xứng ở cung Nhà 9, cho thấy đây là một chính phủ xem trọng ngoại giao nhưng đặt nặng vấn đề tài chính và đầu tư ở nước ngoài.  Họ cũng chú trọng đến việc cân bằng dân số.


Kim Tinh trong cung thứ 9 cũng cho thấy sự thịnh vượng của họ đến từ xuất nhập khẩu, đầu tư tài chính và làm ăn ở nước ngoài, lục hợp (60°) với Mộc Tinh ở Ngư Dương cho thấy mức độ may mắn nếu họ đoàn kết, chính chắn và có đạo đức.  Họ chịu đựng, nhẫn nhịn và lạc quan khi sử dụng những nguyên lý đã đúng hàng ngàn năm nay.  Mộc Tinh trong Ngư Dương cũng rất thành công về kiến trúc, xây dựng, bộ máy chính trị, tài chính, y khoa và cải tạo môi trường.  Họ có tham vọng về quyền lực, danh tiếng, sĩ diện và vai trò quan trọng trên diễn đàn thế giới.



Thiên Vương Tinh thuộc cung Nhà thứ 6 trong Cự Giải cho thấy nhiều việc xung đột tranh chấp về đất đai, lãnh thổ, bất động sản từ khi chính phủ được thành lập.


Với Mặt Trăng trùng tụ với điểm Mọc trong Bảo Bình cho thấy vấn đề dân số và phụ nữ nổi bật ở TQ.  Chính sách 1 con được ban hành vào năm 1978 đã có hiệu quả một thời gian, nhưng lại làm cho số lượng người già tăng gấp đôi trong xã hội.  Nhiều thai nhi nhất là bé gái đã bị nạo phá.  Mặt tốt của điều này đó là bây giờ phụ nữ trở nên "có giá" trong xã hội TQ, và phân nửa số phụ nữ giàu nhất trên thế giới đều là người TQ !


...



3) Hợp chủng quốc Hoa Kỳ (HCQHK)


Dưới đây là lá số của Hợp chủng quốc Hoa Kỳ, được thành lập vào ngày 4/7/1776, tại Philadelphia, PA, lúc 17:11 chiều với cung Mọc trong Nhân Mã.



Tương tự với Trung Quốc, HCQHK cũng có Hỏa Tinh đóng ở cung Nhà thứ 7, cho thấy sự tập trung và đầu tư quân sự của họ để "ổn định trật tự" trên thế giới.


Điểm Mọc ở Nhân Mã cho thấy đây là một dân tộc mạo hiểm, thích khám phá, hiếu động, thích ăn nói.  Văn hóa của họ mang tính nhân văn lý thú và sâu sắc, dù là có lúc không được chi tiết rõ ràng cho lắm.  Họ lạc quan, tự tin và thể hiện hạnh phúc dù bên trong có những tâm trạng buồn bực.


Họ cố chấp và thích xía vào chuyện của người khác, nước khác, dù là người đó có mong muốn lắng nghe hay không.  Họ có lối ngoại giao hài hước, thân thiện dù trong hoàn cảnh nào, và đôi lúc làm cho đối phương lầm tưởng là họ "ngây thơ" !


Họ yêu tự do và độc lập, và chú trọng vào kỹ thuật phương tiện và kỹ nghệ du lịch.  Mộc Tinh ở cung Nhà thứ 8 trong Cự Giải cho thấy họ thành công và may mắn trong việc mở rộng nguồn lực đầu tư, bất động sản (vì Mộc Tinh còn là chủ tinh của cung Nhà 4), đất đai và lãnh thổ trên toàn thế giới. Bất kỳ nơi nào họ đến, họ cũng muốn biến nơi đó trở nên ấm cúng thân thiện như ở quê nhà.  An ninh, quốc phòng rất quan trọng với họ.



Với Mặt Trăng ở cung Bảo Bình tam hợp với Kim Tinh, Mộc Tinh ở Cự Giải, "living American dream" là châm ngôn của họ, mang lại bình đẳng, quyền lợi trong cuộc sống cho mọi người, nhất là phụ nữ. Họ có óc quan sát, thích nghiên cứu tâm lý của công dân hay các chính phủ khác, và phân tích tại sao những người đó lại làm như vậy.  Kỹ nghệ giao thông và viễn thông phát triển mọi mặt với đất nước này.  Công việc từ thiện, nhân đạo cũng như tinh thần đồng đội được đề cao.


Diêm Vương Tinh trong Ngư Dương cho thấy họ khá thận trọng trong mọi thứ.  Họ tin rằng mọi việc đều phải được huấn luyện bài bản và trải nghiệm.  Dù rất có tham vọng, họ thừa kiên nhẫn để bước đi từng bước, và vui vẻ với một sự thay đổi từ từ.  Họ là những bậc thầy trong chính trị và có tài tổ chức rất cao.


Với Thổ Tinh trong cung Thiên Xứng, họ tin vào sự quân bình và công lý.  Đối với họ, hôn nhân là một cái gì đó rất khó khăn và họ mong muốn tạo dựng các quan hệ vững chắc, và ngưỡng mộ các cuộc hôn nhân bền vững lâu dài trong xã hội.  Họ tạo ra những đạo luật nhằm giới hạn vấn đề ngoại tình trong hôn nhân để chống nạn ly dị, nhưng cũng rất uyển chuyển, kiên nhẫn, và chịu đựng trong vấn đề hôn nhân nói riêng, và chính sách đối ngoại nói chung.


HCQHK có Thủy Tinh trong Cự Giải cho thấy họ luôn có những hoài niệm về quá khứ và lịch sử.  Cung Nhà thứ 5 trong Dương Cưu cho thấy chủ nghĩa "hiện sinh" và hành động theo "bản năng" trong phim ảnh, giải trí và giáo dục trẻ em.  Hải Vương Tinh trong cung Nhà thứ 10 thuộc Xử Nữ cho thấy sự tỉ mỉ trong kỹ thuật làm phim, nghệ thuật (Hollywood) và tam hợp với Diêm Vương Tinh trong cung Nhà thứ 2 cho thấy vai trò quyền lực của phim ảnh đối với nền kinh tế đất nước.


....



Còn rất nhiều khía cạnh phân tích mà tôi chưa đề cập đến trong những ví dụ trên đây, và tôi chỉ nêu ra sơ lược những ý chính để các bạn sẽ tự tìm hiểu và khám phá thêm "những khoảng trống" sau này.


./.


Phiên bản 1.0.4, xuất bản ngày 2/9/2012, cập nhật ngày 30/06/2018 bởi Chòi Chiêm Tinh (https://www.facebook.com/choichiemtinh)

GPL: Bạn được quyền sao chép trang này nhưng nhớ để tên tác giả và link về trang Chòi Chiêm Tinh này bên dưới.  Chân thành cám ơn!

Chủ Nhật, 13 tháng 9, 2020

Quần Tiên Hội

Bạch Liên

Source: https://kilopad.com/Ton-giao-Tu-tuong-c40/doc-sach-truc-tuyen-luat-luan-hoi-b3420/chuong-37-quan-tien-hoi-va-su-cai-tri-the-gian-ti37 

Thiên Đình cũng gọi là Quần Tiên Hội, là một đoàn thể gồm những vị Siêu phàm thay mặt cho Đức Thái Dương Thượng Đế cai trị thế gian. Cai trị ở đây nghĩa là điều khiển sự sanh hóa và sự tiến hóa của các loài vật trên Địa cầu cho đúng với Cơ Trời.

NGÔI THỨ TRÊN THIÊN ĐÌNH

Trên hết và Chủ tể Quần Tiên Hội là Đức NGỌC ĐẾ, được 9 lần Điểm đạo.

Kế đó là bốn vị Phật, được 8 lần Điểm đạo. Ba vị Phật ở Cung Thứ Nhứt gọi là Độc Giác Phật (Pratyéka Bouddha ou Pachcheka Bouddha) và một vị Phật ở Cung Thứ Nhì gọi là Phật Đạo Đức (Bouddha).

Tam Thanh được 7 lần Điểm đạo:

1)- Đức Bàn Cổ (Manou)

2)- Đức Bồ Tát (Bodhisatva)

3)- Đức Văn Minh Đại Đế (Maha Chohan)

Dưới Tam Thanh là 7 vị Đế Quân, được 6 lần Điểm đạo. Mỗi vị coi sóc một Cung.

Dưới các vị Đế Quân là những vị A-Sơ-Ca, những vị Chơn tiên được 5 lần Điểm đạo.

Dưới Chơn Tiên là những vị Đệ tử được Điểm đạo từ một lần tới bốn lần. Phật giáo gọi là Tứ Thánh.

a)   Những vị La Hán (Arhat) được 4 lần Điểm đạo.

b)   Những vị A Na Hàm (Anagamin) được 3 lần Điểm đạo.

c)   Những vị Tư Đà Hàm (Sakridagamin) được 2 lần Điểm đạo.

d)   Những vị Tu Đà Hườn (Sotapanna) được 1 lần Điểm đạo.

NHIỆM VỤ CỦA MỖI VỊ

Các Thánh kinh đều dạy rằng: Chỉ nên nói những điều nầy cho những người thành tâm mộ Đạo mà thôi. Nếu lọt vào tai những người chưa thông thạo Đạo Lý Thánh Hiền thì họ không hiểu chi hết. E có khi họ sanh lòng bất kính, ngạo báng, khinh khi thì họ sẽ gây quả xấu cho họ về sau. Vậy khá thận trọng. Thế nên tôi xin nói về nhiệm vụ của các Ngài một cách kính cẩn và vắn tắt.

ĐỨC NGỌC ĐẾ

Trên mỗi bầu Hành tinh có ba vị Thánh đế thay mặt cho Đức Thái Dương Thượng Đế, để cai trị và điều khiển một cách tuyệt đối sự sanh hóa của các loài vật trên đó, mỗi vị trong một kỳ gian.

Tại cõi Trần, người ta gọi các Ngài là ba vị NGỌC ĐẾ.

Đức Ngọc Đế hiện kim là Đức Ngọc Đế thứ ba. Hai vị trước đã mãn nhiệm kỳ lâu lắm rồi. 16 triệu rưởi năm trước, lúc Giống dân thứ Ba phân chia nam nữ thì Ngài từ Kim Tinh xuống với những vị khác:

a)   Ba vị Độc Giác Phật, đệ tử của Ngài.

b)   Lối 25 vị Đại Thánh đủ các cấp bực, và

c)   105 thường dân ở Kim Tinh mà Ngài cho đầu thai chung lộn với nhân loại trên Địa cầu.

Ngài qua Địa cầu với ba mục đích.

Một là: Cầm quyền cai trị và điều khiển sự tiến hóa của các loài vật trên Địa cầu trong giai đoạn thứ ba.

Hai là: Lập Quần Tiên Hội.

Ba là: Thúc đầy sự phát triển trí tuệ.

Ngài đem theo nhiều thứ cây cỏ trong đó có lúa mì và hai loài: ong và kiến.

Mật ong và lúa mì là hai món thực phẩm bổ dưỡng nhứt, còn ong và kiến giúp cho cây cối kết trái mau lẹ. Ngày nay các nhà bác học chưa truy ra được vì nguyên nhân nào mà đời sống tập thể của loài ong và kiến lại không giống các loài thú khác trên Địa cầu.

TÁC CỦA NGÀI

Tác của Ngài bằng một vị thanh niên mười sáu xuân xanh, do phép thần thông hóa ra. Đã mười sáu triệu rưởi năm rồi, không dùng một món chi mà vẫn không già, không cỗi. Thật là vóc ngọc mình vàng, trường sanh bất tử.

Kinh sách cổ Ấn Độ xưng tụng Ngài là Sanat Koumara (Sa Na Cu Ma Ra). Sanat là một tên của Đức Thượng Đế Brahma, còn Koumara có hai nghĩa: một là thanh niên, hai là Vương đế.

Người ta gọi Ngài và ba vị Độc Giác Phật là bốn vị Hồng Quân (Les 4 Seigneure de la Flame, Les Enfants du brouillard de Feu, Les Fils du Feu). Các Ngài là những vị Thiên Tôn Manasaputras (Ma Na Sa Pu Tra) giúp cho con người mở mang trí tuệ.

THÚC ĐẨY SỰ PHÁT TRIỂN TRÍ TUỆ

Các Ngài chiếu hào quang vào con người, nhờ từ điển của các Ngài mà tia sáng thiêng liêng trong mình con người bừng chói sáng rỡ trong chớp nhoáng không khác nào ánh sáng mặt trời làm cho cái bông đang búp nở ra vậy.

Nhờ các Ngài mà trí tuệ của con người phát triển trước một Cuộc Tuần Hườn, bởi vì trong Cuộc Tuần Hườn thứ Tư nầy, đúng phép là con người mới mở mang cái Vía tức tình cảm. Qua Cuộc Tuần Hườn sau tức là Cuộc Tuần Hườn thứ Năm thì cái Trí con người mới hoạt động mạnh mẽ. Cuộc Tuần Hườn thứ Năm mới là Cuộc Tuần Hườn của Trí tuệ (Ronde Mentale).

Cả triệu con thú cũng nhờ các Ngài giúp đỡ theo cách đó mà có Thượng trí, được đi đầu thai làm người, trước khi "cánh cửa thiên nhiên đóng lại giữa con người và thú vật".

QUYỀN NĂNG CỦA ĐỨC NGỌC ĐẾ

Tâm của Ngài thông suốt từ cõi Tối Đại Niết Bàn cho tới cõi Trần. Hào quang của Ngài bao trùm quả Địa cầu cho nên không có một con kiến nào chết mà Ngài không hay, hoặc là một sự vật bất công nào xảy ra ở bất cứ nơi nào mà Ngài không biết, bởi vì tại Trái đất nầy, Ngài vốn toàn năng, toàn giác, toàn thiện, vô sở bất tại.

Ngài dùng được tất cả những trạng thái siêu việt của Fohat, thần lực của Thái Dương Thượng Đế và luôn những thần lực của Vũ trụ ở ngoài địa cầu.

Thường thường thì Ngài lo lắng cho sự tiến hóa chung của Nhân loại, nhưng khi Ngài để ý đến một người nào thì Ngài giúp ngay Atma, tức là Chơn thần của người ấy, nhờ vậy y tiến tới một cách mau lẹ.

Duy có một mình Ngài được phép Điểm đạo mà thôi. Không có sự ưng thuận của Ngài thì không một ai được vào Quần Tiên Hội. Luôn luôn trong hai kỳ Điểm đạo đầu tiên: lần thứ nhứt và lần thứ nhì. Ngài nhờ Đức Bồ Tát [[1]] nhân danh Ngài mà Điểm đạo. Qua kỳ Điểm đạo lần thứ Ba, lần thứ Tư thì Ngài Điểm đạo, hoặc là Ngài giao cho một vị Độc Giác Phật nhân danh Ngài.

Có những vị La Hán nói rằng: Ngài oai nghi lẫm liệt cho đến đỗi các vị ấy quì trước mặt Ngài, nắm nắm, nóp nóp, chẳng dám ngó lên, có khi phải lấy tay bụm mắt vì chịu không nổi cái nhìn của Ngài và hào quang rực rỡ của Ngài.

Chỉ có một mình Ngài xử dụng cây PHÁP LỊNH mà thôi.

CÂY PHÁP LỊNH

Cây Pháp Lịnh tượng trưng uy quyền tối thượng của Đức Ngọc Đế. Nó hình tròn dài lối sáu tấc, bề trực kính năm phân, hai đầu gắn hai hột xoàn tròn, lớn và đầu nhọn. Nó làm bằng một thứ kim khí tương tợ như vàng gọi là Oricalcum, mà ngày nay thứ đó không còn trên mặt Địa cầu nữa. Luôn luôn có một thứ lửa chói sáng ngời và trong vắt bao bọc nó.

Đức Hành Tinh Thượng Đế (Logos Planétaire) truyền thần lực của Ngài vô cây Pháp Lịnh nầy, khi mà lần đầu tiên Ngài cho Linh hồn của nhơn vật xuống đầu thai ở Dãy Địa Cầu nầy.

Cây Pháp Lịnh là một trung tâm để thâu nhận thần lực của Ngài. Nó là chỗ Ngài tập trung tư tưởng. Người ta đem nó từ Bầu Hành Tinh nầy sang Bầu Hành Tinh kia, tùy theo Đức Hành Tinh Thượng Đế chủ ý đến Bầu Hành Tinh nào, bởi vì chốn đó là trường tiến hóa của các loài vật. Không rõ cây Pháp Lịnh nầy khi qua ở những Bầu Hành Tinh vô hình thì bằng cách nào? Chẳng ai biết được.

Ngoài những việc trên đây, cũng chẳng rõ ngày thường nó dùng để làm gì, chỉ nghe nói rằng: Khi nó bỏ Bầu Hành Tinh nào rồi thì sự hoạt động của Bầu Hành Tinh đó đã chấm dứt. Sanh khí đã mất hết chín phần mười, chỉ còn một phần mười đủ dùng cho nhơn vật theo đường tiến hóa của Nội Cảnh Tuần Hườn. Thế nên cây Pháp Lịnh nầy liên quan đến sự sanh tồn của các loài vật trên mỗi Bầu Hành Tinh.

Ngày thường nó chỉ ở tại Thiên Cung SAMBALLA (Sam Ba La) và dường như nó có hai trường hợp được đem ra ngoài: Một lần là lúc lễ Điểm Đạo, một lần nữa trong lúc lễ Vía Phật Thích Ca. Trong lúc làm lễ, duy có một mình Đức Bồ Tát được phép cầm nó mà thôi.

THIÊN CUNG

Thiên Cung ở tại Bồng Lai đảo (Île Blanche) – thuở xưa là một hải đảo ở chính giữa biển Qua Bích (Mer de Gobi) dẫy đầy kỳ hoa dị thảo, phong cảnh u nhàn, tại Địa cầu không có chốn nào sánh kịp. Mười sáu triệu rưởi năm trước, ấy là món quà của Trái đất kính cẩn dâng lên cho vị Thánh Đế của mình.

Bồng Lai đảo tức là Bồng Lai trong các truyện Thần tiên của Trung Hoa đã miêu tả. Sau những cuộc tang thương, Đại hải Qua Bích biến thành sa mạc, nhưng không chút chi hề hấn. Bây giờ nó là một ốc đảo, gọi là Sam Ba La (Samballa) và không khác nào là trái tim của quả Địa cầu. Những luồng trược khí đều gom lại đó, rồi mới biến đổi ra thanh khí để nuôi dưỡng các loài như cũ, không nghỉ không ngừng.

V.- Những người du mục, những người thám hiểm đến sa mạc Qua Bích (Désert de Gobi) có được gặp Thiên Cung chăng ?

Đ.- Phải được từ ba lần Điểm đạo trở lên và có lịnh vời mới tới đó được. Chứ người thường, lòng còn tràn trề dục vọng, che mất thiên lương thì dầu có tới sa mạc Qua Bích và thám hiểm liên tiếp trong vòng 10 ngàn năm đi nữa, chớ đừng nói 9, 10 năm, cũng không mong lại gần được Thiên Cung, nói chi là thấy nó bởi vì họ bị các Thiên thần án mắt.

HỘI QUẦN TIÊN

Bảy năm một lần, Đức Ngọc Đế cho vời các Tiên Thánh trên Địa cầu, có khi vài vị La Hán được mời tới Thiên Cung dự một cuộc lễ, dưới quyền chủ tọa của Ngài.

Cuộc lễ nầy lớn hơn và quan trọng hơn lễ Huê Sắc (Vésak) (Lễ Vía Phật Thích Ca) và có một đặc tánh khác hơn.

Người thường không rõ mục đích của cuộc lễ nầy, nhưng người ta có thể ước đoán rằng dầu sao cũng có sự xem xét những việc xảy ra trên cõi Trần và những điều của Quần Tiên Hội đã thực hiện trong thời gian đó.

Cuộc hội hiệp nầy cũng là một dịp để cho Tiên Thánh tiếp xúc với vị Chúa Tể của mình, bởi vì ngày thường Ngài chỉ tiếp kiến những vị Chủ Tể của các Cung như Đức Phật, Đức Bồ Tát, Đức Bàn Cổ, Đức Văn Minh Đại Đế và các vị Đế Quân mà thôi; ngoại trừ khi cần thiết, Ngài mới cho vời đương sự đến trước mặt Ngài. Có lẽ vịn theo đây mà truyện Tàu đặt ra Hội Bàn Đào, Tây Vương Mẫu mời các Thần Tiên đến dự gọi là Quần Tiên Đại Hội.

NHIỆM VỤ CỦA NGÀI RẤT QUAN TRỌNG

Nhiệm vụ của Đức Ngọc Đế thứ Ba quan trọng hơn nhiệm vụ của hai vị trước.

Ngài phải điều khiển sự tiến hóa của nhơn vật cho đến mức độ của Cơ Trời đã định sẵn cho họ tại Bầu Trái Đất nầy trước khi chấm dứt mọi hoạt động. Khi Giống dân thứ Bảy đã tàn, xong nhiệm vụ rồi, thì Ngài đem cả ngàn triệu Linh hồn trao cho Đức Bàn Cổ Mầm Giống (Manou Semence) săn sóc và chịu trách nhiệm trong khi họ nghỉ ngơi ở cõi Niết Bàn. Đúng ngày giờ thì Đức Bàn Cổ Mầm Giống sẽ giao họ lại cho Đức Bàn Cổ Cội Rễ (Manou Racine). Đấng Chí Tôn nầy mới đem họ qua Bầu Hành Tinh thứ Năm là Bầu Thủy Tinh, cho họ đầu thai đặng tiếp tục sự tiến hóa của họ ở trên đó.

VỊ PHỔ TỊNH ĐẠI ĐẾ

(Le Veilleur Silencieux)

Khi hoàn thành nhiệm vụ cao cả nầy rồi thì Đức Ngọc Đế về cõi khác. Ngài qua một kỳ Điểm đạo nữa là lần thứ Mười. Ngài sẽ thành một vị Phổ Tịnh Đại Đế (Veilleur Silencieux) thế cho Đức Phổ Tịnh Đại Đế hiện kim.

Ngài sẽ lãnh trách nhiệm canh chừng nhơn loại trọn một thời gian bằng một Cuộc Tuần Hườn trên bảy Bầu Hành Tinh.

Bảy Bầu đó là : ba Bầu còn lại của Cuộc Tuần Hườn thứ Tư, và bốn Bầu của Cuộc Tuần Hườn thứ Năm. Ba Bầu còn lại của Cuộc Tuần Hườn thứ Tư là Bầu thứ Năm E (Thủy Tinh – Mercure), Bầu thứ Sáu F và Bầu thứ Bảy G.

Bốn Bầu của Cuộc Tuần Hườn thứ Năm là: Bầu thứ Nhứt A, Bầu thứ Nhì B, Bầu thứ Ba C (Hỏa Tinh - Mars), Bầu thứ Tư D (Địa cầu chúng ta). Đây có nghĩa là: Nhơn loại phải qua ba Bầu chót nữa mới hết Cuộc Tuần Hườn thứ Tư. Rồi qua Cuộc Tuần Hườn thứ Năm, nhơn loại phải trở lại Bầu thứ Nhứt A, Bầu thứ Nhì B, Bầu thứ Ba C (Hỏa Tinh), Bầu thứ Tư D (Địa cầu chúng ta).

Tới chừng nhơn loại rời Địa cầu một lần nữa, Ngài mới giao nhiệm vụ kỳ lạ và nặng nề nầy cho một vị khác lên thay thế cho Ngài.

Hiện giờ Đức đương kim Phổ Tịnh Đại Đế chưa mãn nhiệm kỳ.

A.- BA VỊ ĐỘC GIÁC PHẬT

(Pratyéka Bouddha)

Kinh sách Ấn Độ gọi ba Ngài là :

1) Sanandana,

2) Sanaka,

3) Sanatana.

Ba Ngài sẽ thay phiên nhau lãnh nhiệm vụ NGỌC ĐẾ đặng điều khiển sự tiến hóa trên Bầu Thủy Tinh khi nhơn loại qua đó.

Thân thể của ba Ngài cũng do thần thông hóa ra, muôn kiếp ngàn đời không hề hư hoại. Hiện giờ các ngài ở tại Thiên Cung với Đức Ngọc Đế.

Pratyéka Bouddha dịch là Độc Giác Phật, tôi e không đúng, bởi vì trong chữ Độc Giác có ẩn nghĩa ích kỷ. Pháp dịch là Bouddhas Egoistes, Bouddhas Solitaires. Có lẽ tại người ta cho rằng những vị Độc Giác Phật chỉ lo khai sáng cho mình mà thôi, chớ không độ ai cả. Điều này không đúng với sự thật, người ta lầm vậy.

Chúng ta nên hiểu rằng: Các vị Pratyéka Bouddha thuộc về Cung thứ Nhứt, là Cung Hành chánh, Cung Uy quyền, chớ không phải lo cho các Tôn giáo phát triển.

Hơn nữa, các vị Độc Giác Phật ở Kim Tinh, thuộc Hệ thống Tiến hóa không giống Hệ thống tiến hóa của chúng ta, mà trong nhơn loại cũng chưa có vị nào tu hành tới bực Độc Giác Phật cả.

Nhưng có một điều chắc chắn là từ ngày mới học Đạo cho tới lúc làm một vị Phật, các Ngài đã độ đời rất nhiều, mặc dù nhơn vật đó không phải là nòi giống của chúng ta. Các Ngài đã trải qua nhiều cấp bực Điểm đạo từ một lần lên tới tám lần vậy.

Trong Thái dương hệ, luật Trời chỉ có một. Nếu tu hành mà ích kỷ thì không thể nào thành Chánh quả đâu.

B.- PHẬT ĐẠO ĐỨC

Danh từ Bouddha dịch là Phật, có hai nghĩa :

Một là: Giác - Sáng suốt.

Hai là: Địa vị của Đấng Chí Tôn được 8 lần Điểm đạo, cai quản Cung thứ Nhì ở mấy cõi cao.

Nếu nói: Phật chỉ là Giác mà thôi thì chưa đủ.

BẢY VỊ PHẬT ĐẠO ĐỨC

Trên mỗi Hành Tinh có bảy Giống dân Chánh, tuần tự sanh ra thì phải có bảy vị Phật Đạo Đức, mỗi Giống dân có một vị để điều khiển công việc của Cung thứ Nhì ở mấy cõi cao.

Ba vị Phật của ba Giống dân trước đã điêu tàn rồi là:

1)   Đức Padmatara,

2)   Đức Siki và

3) Đức Kasyapa (Ca Diếp).

Ba Ngài ở Kim Tinh qua giúp Dãy Địa cầu.

ĐỨC PHẬT THỨ TƯ

Đức Phật thứ Tư là Đấng Chí Tôn mà người ta gọi là Đức Thích Ca Mâu Ni. Ngài là Đức Phật của Giống dân thứ Tư, là Giống Át-Lăn (Atlantes). Ngài cũng là người thứ nhứt của nhơn loại đắc quả Phật mới 2.500 năm nay.

Trước khi thành Phật, Ngài đã ở ngôi Bồ Tát và đã giáng phàm nhiều lần. Người ta biết được vài kiếp quá khứ của Ngài như sau đây:

1)- VYASA bên Ấn Độ, lập Ấn Độ giáo.

2)- HERMÈS bên Ai Cập, lập ra Tôn giáo Quang Minh.

3)- ZOROASTRE, vị đầu tiên của 29 vị Zoroastres, lập ra Đạo thờ Lửa, gọi là Hỏa Thần giáo hay Bái Hỏa giáo.

4)- ORPHÉE, ở Hi Lạp, dùng Âm nhạc và Thi ca đặng giáo hóa, còn nhiều kiếp nữa chưa tri ra.

VÌ SAO CÓ PHẬT RA ĐỜI ?

Khi có một Giống dân nào đó gần tàn rồi thì Đức Bồ Tát của Giống dân đó giao quyền Chưởng giáo cho Đức Đế Quân Chưởng quản Cung thứ Nhì lên kế vị cho Ngài. Còn Ngài thì qua cõi khác 

và qua một lần Điểm đạo nữa; lần nầy là lần thứ tám và làm một vị Phật Đạo Đức.

Thành Phật rồi thì Ngài lâm phàm lần chót đặng dạy Đạo. Xong rồi thì Ngài trở về Thiên Đình lãnh nhiệm vụ Chủ Tể Cung thứ Nhì . . . Từ đó Ngài không còn dính dấp tới trần ai nữa.

Kiếp chót, Đấng Chí Tôn mà ta gọi là Đức NHƯ LAI mượn xác Thái tử Sĩ Đạt Ta, con vua Tịnh Phạn (Shudodana) bên Ấn Độ.

Trước khi giáng phàm, Ngài sắp đặt thế nào cho những vị Đệ tử của Ngài mấy kiếp trước, đi đầu thai hoặc một lượt với Thái tử hoặc trước hay là sau một vài năm, đặng khi Ngài ra thuyết pháp 

thì mấy vị ấy trở về với Ngài liền.

Nhờ Từ điện và Thần lực của Ngài mà nhiều vị Đệ tử lớn (người ta nói có tới cả ngàn) đắc quả La Hán và nhiều vị Đệ tử nhỏ đắc quả Tu Đà Hườn, Tư Đà Hàm và A Na Hàm.