Nguồn: Think On
Giáo dục Khai phóng (GDKP) được xây dựng trên phương pháp Socratic - đặt theo tên của nhà triết học vĩ đại người Hy Lạp Socrates. Socrates sử dụng phương pháp giảng dạy độc đáo - sử dụng mô hình câu hỏi và hội thoại để thúc đẩy học trò của mình tư duy phản biện và bảo vệ quan điểm của mình.
Trong các trường học GDKP hiện đại, chương trình học được thiết kế tập trung chủ yếu vào các cuộc thảo luận và đưa feedback. Tương tự như việc Socrates thúc đẩy học trò tranh biện, nhiệm vụ của đội ngũ giảng dạy trong trường là khuyến khích sinh viên tương tác, tranh luận. Phong cách giảng dạy này là vô cùng khác biệt so với các trường công lớn dựa trên mô hình học thụ động qua bài giảng.
Giáo dục Khai phóng (GDKP) được xây dựng trên phương pháp Socratic - đặt theo tên của nhà triết học vĩ đại người Hy Lạp Socrates. Socrates sử dụng phương pháp giảng dạy độc đáo - sử dụng mô hình câu hỏi và hội thoại để thúc đẩy học trò của mình tư duy phản biện và bảo vệ quan điểm của mình.
Trong các trường học GDKP hiện đại, chương trình học được thiết kế tập trung chủ yếu vào các cuộc thảo luận và đưa feedback. Tương tự như việc Socrates thúc đẩy học trò tranh biện, nhiệm vụ của đội ngũ giảng dạy trong trường là khuyến khích sinh viên tương tác, tranh luận. Phong cách giảng dạy này là vô cùng khác biệt so với các trường công lớn dựa trên mô hình học thụ động qua bài giảng.
Một trong những cuộc tranh luận nóng bỏng nhất trong Giáo dục hiện nay là về mô hình GDKP. Mô hình này gần ngày càng được đem ra so sánh với mô hình STEM (Science - Technology - Engineering - Math). Sự tiến bộ của công nghệ đòi hỏi chuyên môn cao khiến nhiều người đánh giá thấp các môn học truyền thống như Triết học, Văn học. Trong thời đại toàn cầu hóa, các kĩ năng có được thông qua mô hình học STEM ngày càng trở nên thiết yếu trong thị trường việc làm.
Tuy nhiên, gần đây chúng ta lại thấy một sự trỗi dậy của mô hình Giáo dục Khai phóng tại Châu Á. Trong khi các đại học GDKP tại Mỹ có tương lai gặp khó khăn thiếu hụt số lượng sinh viên đăng kí và ngân sách, thì các nhà giáo dục, nhà quản lý ở các quốc gia như Trung Quốc, Hàn Quốc, Singapore,vv lại chú trọng đến việc xây dựng môi trường học tập thúc đẩy tư duy phản biện và sức sáng tạo. “Khi Mỹ đang bắt đầu tập trung vào các chương trình đào tạo chuyên môn, thì châu Á lại dần khai thác lợi ích từ sự sáng tạo và tư duy đa chiều có được qua GDKP. Tìm cách thoát ra khỏi phương pháp giáo dục rập khuôn và chuyên môn, các quốc gia châu Á đang bắt đầu tìm thấy động lực từ mô hình GDKP” - trích Tiến sỹ Chester Goad.
Trong thập kỉ vừa qua, các chương trình đào tạo dựa trên GDKP xuất hiện ngày càng nhiều ở Nhật Bản, Trung Quốc, Hàn Quốc. Có thể kể đến một số cái tên như đại học Yale - NUS (kết hợp giữa đại học Yale, Hoa Kỳ và đại học Quốc gia Singapore), Duke Kunshan University (kết hợp giữa đại học Duke, Hoa Kỳ và đại học Wuhan, Trung Quốc), SNU’s College of Liberal Studies (Trực thuộc Đại học quốc gia Seoul), vv. Và trong năm 2017, chính phủ Việt Nam cũng đã liên kết với chính phủ Hoa Kỳ xây dựng đại học GDKP đầu tiên tại Việt Nam - đại học Fulbright Việt Nam.
*****
Trong thập kỉ vừa qua, các chương trình đào tạo dựa trên GDKP xuất hiện ngày càng nhiều ở Nhật Bản, Trung Quốc, Hàn Quốc. Có thể kể đến một số cái tên như đại học Yale - NUS (kết hợp giữa đại học Yale, Hoa Kỳ và đại học Quốc gia Singapore), Duke Kunshan University (kết hợp giữa đại học Duke, Hoa Kỳ và đại học Wuhan, Trung Quốc), SNU’s College of Liberal Studies (Trực thuộc Đại học quốc gia Seoul), vv. Và trong năm 2017, chính phủ Việt Nam cũng đã liên kết với chính phủ Hoa Kỳ xây dựng đại học GDKP đầu tiên tại Việt Nam - đại học Fulbright Việt Nam.
*****
Giáo dục Khai phóng là một hệ thống giáo dục khác biệt rất phổ biến tại Mỹ. Trong mô hình này, sinh viên theo học đa dạng các lĩnh vực (ví dụ Khoa học, Nghệ thuật, Lịch sử, Kinh tế, vv) song cùng lúc đó vẫn có được kiến thức chuyên sâu trong chuyên ngành đã chọn. Giáo dục khai phóng đem đến cho sinh viên sự tự do trong việc chọn lĩnh vực học, giáo sư, chương trình học.
Chuyên ngành thường bao gồm nhiều kỹ năng tương tác, đào tạo cho sinh viên khả năng hiểu được mối tương quan giữa các sự vật, hiện tượng, và khả năng tiếp thu. Giáo dục Khai phóng dạy sinh viên tiếp cận vấn đề từ một góc nhìn khác. Sinh viên theo học sẽ là những cá nhân có khả năng đa nhiệm và toàn diện.
💡Trải nghiệm học thuật
Trong hệ thống Giáo dục khai phóng, năm học đầu tiên là dành cho sinh viên khám phá: học kiến thức nền tảng, nắm vững các kĩ năng giao tiếp, tư duy logic, kĩ năng nghiên cứu, kĩ năng giải quyết vấn đề.
Sang năm thứ hai, sinh viên sau khi có được trải nghiệm và kiến thức nền tảng của đa dạng lĩnh vực, sẽ bắt đầu chọn chuyên ngành để theo đuổi trong những năm tiếp theo.
Lớp học nhỏ, sự tương tác cao giữa đội ngũ nhà trường và sinh viên là chuẩn mực của mô hình giáo dục này. Sĩ số mỗi lớp học thường không quá 20 sinh viên, khiến sự tương tác giữa giáo sư và sinh viên, những buổi thảo luận, làm việc nhóm trở nên hiệu quả. Sinh viên cũng có được sự hỗ trợ và hướng dẫn cần thiết từ giáo sư 1 cách dễ dàng.
Giáo sư trong trường thường chỉ tập trung vào công việc giảng dạy thay vì nghiên cứu. Hầu hết sinh viên theo học mô hình Giáo dục khai phóng nói rằng các giáo sư nhớ tên họ và dành sự quan tâm đến thành công của họ.
Giáo dục Khai phóng rèn luyện cho sinh viên bộ kĩ năng phân tích, khả năng thích nghi và linh hoạt trong thị trường toàn cầu không ngừng biến động.
Giáo dục khai phóng thúc đẩy sinh viên định hình môi trường phát triển của bản thân và đóng góp cho xã hội.
💡Trải nghiệm đời sống sinh viên
Đại học theo mô hình Giáo dục khai phóng giúp hình thành những mối quan hệ khăng khít, lâu bền. Việc học tập, hoạt động trong các nhóm nhỏ khiến mối quan hệ giữa sinh viên với sinh viên, sinh viên với giáo sư thường rất thân thiết, gần gũi và lâu dài. Sinh viên ghé thăm nhà giáo sư và ăn tối, làm trợ lý của khoa đều rất phổ biến.
Điều này không chỉ giúp ích cho quá trình học tập tại trường mà còn sau khi tốt nghiệp. Công việc, đối tác của bạn có thể là do giáo sư đề cử, giới thiệu.
Chuyên ngành thường bao gồm nhiều kỹ năng tương tác, đào tạo cho sinh viên khả năng hiểu được mối tương quan giữa các sự vật, hiện tượng, và khả năng tiếp thu. Giáo dục Khai phóng dạy sinh viên tiếp cận vấn đề từ một góc nhìn khác. Sinh viên theo học sẽ là những cá nhân có khả năng đa nhiệm và toàn diện.
💡Trải nghiệm học thuật
Trong hệ thống Giáo dục khai phóng, năm học đầu tiên là dành cho sinh viên khám phá: học kiến thức nền tảng, nắm vững các kĩ năng giao tiếp, tư duy logic, kĩ năng nghiên cứu, kĩ năng giải quyết vấn đề.
Sang năm thứ hai, sinh viên sau khi có được trải nghiệm và kiến thức nền tảng của đa dạng lĩnh vực, sẽ bắt đầu chọn chuyên ngành để theo đuổi trong những năm tiếp theo.
Lớp học nhỏ, sự tương tác cao giữa đội ngũ nhà trường và sinh viên là chuẩn mực của mô hình giáo dục này. Sĩ số mỗi lớp học thường không quá 20 sinh viên, khiến sự tương tác giữa giáo sư và sinh viên, những buổi thảo luận, làm việc nhóm trở nên hiệu quả. Sinh viên cũng có được sự hỗ trợ và hướng dẫn cần thiết từ giáo sư 1 cách dễ dàng.
Giáo sư trong trường thường chỉ tập trung vào công việc giảng dạy thay vì nghiên cứu. Hầu hết sinh viên theo học mô hình Giáo dục khai phóng nói rằng các giáo sư nhớ tên họ và dành sự quan tâm đến thành công của họ.
Giáo dục Khai phóng rèn luyện cho sinh viên bộ kĩ năng phân tích, khả năng thích nghi và linh hoạt trong thị trường toàn cầu không ngừng biến động.
Giáo dục khai phóng thúc đẩy sinh viên định hình môi trường phát triển của bản thân và đóng góp cho xã hội.
💡Trải nghiệm đời sống sinh viên
Đại học theo mô hình Giáo dục khai phóng giúp hình thành những mối quan hệ khăng khít, lâu bền. Việc học tập, hoạt động trong các nhóm nhỏ khiến mối quan hệ giữa sinh viên với sinh viên, sinh viên với giáo sư thường rất thân thiết, gần gũi và lâu dài. Sinh viên ghé thăm nhà giáo sư và ăn tối, làm trợ lý của khoa đều rất phổ biến.
Điều này không chỉ giúp ích cho quá trình học tập tại trường mà còn sau khi tốt nghiệp. Công việc, đối tác của bạn có thể là do giáo sư đề cử, giới thiệu.
*****
Đọc thêm: Tại sao giáo dục khai phóng và nhân văn quan trọng như kỹ thuật?
"Khi các bậc phụ huynh hỏi tôi bây giờ bọn trẻ nên theo đuổi nghề nghiệp gì và liệu hướng chúng vào các lĩnh vực khoa học, kỹ thuật và công nghệ có phải là điều tốt nhất hay không?
Tôi nói với họ rằng tốt nhất là để chúng tự đưa ra những lựa chọn của riêng mình.
Họ không nên làm những thứ mà cha mẹ chúng ta đã làm cho chúng ta ngày xưa – đó là bảo chúng ta nên học cái gì và khiến chúng ta xem việc học là việc vặt vãnh, không quan trọng; thay vào đó, họ nên khuyến khích con cái theo đuổi sự đam mê và tình yêu trong học tập.
Để tạo ra một tương lai tuyệt vời mà công nghệ đang cho phép, chúng ta cần các nhạc sĩ và nghệ sĩ cùng làm việc với các kỹ sư của chúng ta. Không phải là cái này hay cái kia; mà chúng ta cần cả nhân văn và kỹ thuật."
Nguồn link: https://fuv.edu.vn/tai-sao-giao-duc-khai-phong-va-nhan-van-cung-quan-trong-nhu-ky-thuat/
Đọc thêm: Tại sao quốc gia đang phát triển không nên bỏ qua giáo dục khai phóng
"Văn minh phương Tây là cái nôi lâu đời của truyền thống giáo dục khai phóng, được định nghĩa là giáo dục nhấn mạnh vào sự phát triển toàn diện của một cá nhân ngoài việc đào tạo ngành nghề nghiệp (một cách hẹp hơn). Sự khởi đầu của triết lý này có thể được bắt nguồn từ bộ ba – trivium – các khoá học cơ bản của trường đại thời trung đại (gồm ngữ pháp, hùng biện, và tư duy logic) và bộ tứ – quadrivium (số học, hình học, thiên văn học và âm nhạc). Truyền thống đó vẫn tiếp tục, và ngày nay giáo dục khai phóng là một phân khúc quan trọng của giáo dục đại học ở tất cả các nước phát triển. Vai trò của giáo dục khai phóng trong việc nuôi dưỡng các nhà lãnh đạo và những công dân hiểu biết được công nhận trong cả lĩnh vực công và tư nhân.
...Một người được coi là ảnh hưởng của giáo dục khai phóng là người:
• có thể tư duy phản biện rõ ràng, hiệu quả, và có thể giao tiếp với độ chính xác, hợp lý và thuyết phục;
• có một cách đánh giá sâu sắc về phương cách tìm kiếm tri thức và sự hiểu biết về vũ trụ, xã hội và chính con người chúng ta;
• có kiến thức rộng về các nền văn hóa khác nhau ở các thời điểm khác nhau, và có thể đưa ra các quyết định dựa trên sự tham khảo rộng hơn về thế giới và lực lượng trong lịch sử hình thành nên thế giới;
• có một số hiểu biết và kinh nghiệm về tư duy có hệ thống về đạo đức vềcác vấn đề liên quan đến đạo đức và phẩm chất
• đã đạt được chiều sâu trong một số lĩnh vực tri thức.
Bằng cách dạy học sinh tư duy như thế nào thay vì tư duy về cái gì, và cách học như thế nào hơn là học cái gì, giáo dục khai phóng tạo ra những sinh viên tốt nghiệp có khả năng thích ứng tốt hơn và đáp ứng nhu cầu của một môi trường kinh tế và xã hội thay đổi nhanh. Nhưng trong sự vội vàng để đáp ứng với một thế giới thay đổi nhanh chóng, rất dễ dàng để bỏ qua các mục tiêu dài hạn. Quan điểm cho rằng các kỹ sư chỉ nên học các khía cạnh kỹ thuật trong ngành của họ, ví dụ, bỏ qua tác động xã hội và môi trường trong công việc. Kỹ năng thiết kế và bảo trì đường bộ là điều cần thiết cho tất cả các quốc gia, nhưng nếu các nhà lập kế hoạch và các nhà hoạch định chính sách không nhận ra và xem xét các quan điểm của người dân địa phương, các tác động tiêu cực đến xã hội thì dự án có thể vượt quá tầm kiểm soát và cuối cùng có thể đe dọa đến lợi ích kinh tế. Một ví dụ khác, thực phẩm biến đổi gen (GM) đang tạo ra một nhu cầu rất lớn và ngày càng cấp thiết một cơ quan chuyên môn kỹ thuật mới ở các nước đang phát triển. Tính chuyên nghiệp là cần thiết nếu các quốc gia này tận dụng lợi ích của các loại thực phẩm đó (ví dụ, dinh dưỡng, sức khỏe, chi phí), trong khi tìm cách giảm thiểu rủi ro (ví dụ, các loài xâm hạimới, bệnh thực vật, động vật và người mới không có được biết đến chữa bệnh, và phụ thuộc nông nghiệp lớn hơn trên các nhà cung cấp hạt giống phát triển trong nước). Thực phẩm biến đổi gen cũng gây ra nhiều vấn đề phức tạp vượt ra ngoài tầm kiểm soát của khoa học, bao gồm các vấn đề liên quan đến đạo đức, quy định công cộng, thực hành kinh doanh, đời sống cộng đồng, toàn cầu hoá và quản trị thế giới. Thật khó để tưởng tượng các nước giải quyết những vấn đề này và các vấn đề tương tự một cách hiệu quả mà không có sự lãnh đạo, hoặc ít nhất là sự trợ giúp từ các cá nhân hưởng nền giáo dục khai phóng mạnh mẽ.
Nhiều lợi ích của giáo dục khai phóng là hữu hình dưới hình thức thu nhập cao hơn và tích luỹ chủ yếu cho những cá nhân nhận giáo dục. Nhưng cũng có những lợi ích vô hình, nhiều trong số đó được hưởng bởi các thành viên khác của xã hội. Mặc dù rất khó để đưa ra bằng chứng thuyết phục, chúng ta có thể nghĩ về sáu kênh chính thông qua đó xã hội mong được hưởng lợi từ các chương trình giáo dục khai phóng. Đương nhiên, khả năng ứng dụng và tầm quan trọng sẽ khác nhau giữa các quốc gia. Tất cả các hình thức giáo dục đại học tạo ra lợi ích quốc gia nhưng giáo dục khai phóng tạo ra một bộ lợi ích cụ thể thông qua các kênh được mô tả dưới đây.
Kênh đầu tiên là kinh tế. Chúng tôi nghĩ rằng các lãnh đạo doanh nghiệp có nhiều khả năng đổi mới hơn nhờ các nghiên cứu thường từ giáo dục khai phóng. Đối với các nền kinh tế đang phát triển, sự đổi mới này có thể có nghĩa là chuyển sang các lĩnh vực mới, hiệu quả hơn và thích ứng với các công nghệ phát triển ở nơi khác để tạo việc làm mới và giảm nghèo ở nhà. Giáo dục khai phóng, khuyến khích mọi người đặt câu hỏi và thách thức tư duy và thực hành thông thường, có thể là một chất xúc tác quan trọng giúp tăng tính thông thoáng của nền kinh tế. Ngoài ra, theo quan sát của Thomas Jefferson, giáo dục khai phóng có thể nâng cao giá trị xã hội về khía cạnh công trạng, trái ngược với địa vị xã hội hay sự giàu có từ sinh thời. Ở nhiều nước đang phát triển, sự lạm dụng quyền hành làm cản trở phát triển kinh tế.
Kênh thứ hai, giáo dục ảnh hưởng đến việc hoạch định chính sách. Không có công thức tiêu chuẩn nào để đạt được mục tiêu phát triển, nhưng từ phần lớn bằng chứng chúng tôi cho rằng quản trị tốt, quản lý kinh tế vĩ mô tốt, quan tâm đến giáo dục và sức khỏe, và hội nhập vào nền kinh tế thế giới là những động thái hữu ích. Tất cả các công cụ phát triển này (một số trong đó – như y tế và giáo dục – là mục tiêu của bản thân) đòi hỏi cả kiến thức chung và chuyên môn cũng như kỹ năng.
Ảnh hưởng của giáo dục khai phóng trong việc tham gia hoạt động chính trị cũng là một nguồn lợi cho cộng đồng. Người lãnh đạo mạnh giúp đất nước đi lên, nhưng một người dân tri thức và tích cực có thể giúp cân bằng cán cân quyền lực quốc gia. Dân chủ đại diện, đóng góp tích cực vào việc duy trì nền kinh tế và ổn định xã hội lâu dài ở phương Tây, phụ thuộc mật thiết vào đại đa số công dân hiểu biết và có khả năng thích ứng và làm việc với những ý tưởng phức tạp. Bằng việc lan tỏa tri thức và gia tăng tranh luận, mở rộng giáo dục khai phóng không chỉ ở các nhóm ưu tú mà sẽ giúp công dân tham gia nhiều hơn.
Kênh thứ tư là ảnh hưởng đến gắn kết xã hội. Bằng cách đưa ra loạt các quan điểm khác nhau và khuyến khích các sinh viên kết nối giữa các ngành và nền văn hóa khác nhau, chúng tôi hy vọng rằng giáo dục khai phóng thúc đẩy lòng vị tha và hiểu biết lẫn nhau. Giáo dục khai phóng cũng giúp nuôi dưỡng ý thức cộng đồng và cùng nhau làm việc hướng tới mục tiêu. Và, bằng cách mở rộng và làm sâu sắc thêm kiến thức về lịch sử, nghệ thuật và khoa học, nuôi dưỡng niềm tự hào về văn hóa và sự tôn trọng với người khác. Do đó, giáo dục khai phóng có thể có ảnh hưởng mạnh mẽ đến tinh thần cộng đồng, mà các nước đang phát triển và phát triển hướng tới nếu xã hội của họ phải làm việc cùng nhau để giải quyết vấn đề và nắm bắt cơ hội.
GIảm chảy máu chất xám là điểm thứ năm giáo dục khai phóng có thể mang cho xã hội. Người có cơ hội nhận được một nền giáo dục được thiết kế tốt, có các cơ sở giáo dục nước ngoài ngay tại nước sở tại có nhiều khả năng theo đuổi việc học và tránh chi phí đi ra nướic ngoài. Điều này có thể mang lại những lợi ích cho phụ nữ, khi gia đình của họ có thể miễn cưỡng để họ học ở nước ngoài. Tương tự như vậy, những sinh viên học tập ở các nước khác có nhiều cơ hội trở về nhà hơn, bởi biết rằng ở đó họ cũng tìm thấy một môi trường nhiều cảm hứng. Một ích lợi đến từ thực tế nữa là, nền giáo dục khai phóng thúc đẩy văn hóa học tập suốt đời, thúc đẩy sự phát triển của một nền văn hóa trí tuệ sôi động và khuyến khích các chuyên gia được đào tạo ở các quốc gia khác về làm việc tại quê hương, vì lợi nước mà làm.
Kênh cuối cùng liên quan đến toàn cầu hóa. Chúng tôi tin rằng giáo dục khai phóng thúc đẩy sự gắn kết không chỉ bên trong, mà còn giữa các cộng đồng, dân tộc. Nghiên cứu các tôn giáo của thế giới, ví dụ, có thể giúp học sinh thấy sự liên kết lẫn nhau đồng thời hiểu biết và đánh giá cao sự khác biệt. Văn học, lịch sử và ngôn ngữ đã làm sáng tỏ cách suy nghĩ trong quá khứ và hiện tại của một quốc gia. Trong một thế giới ngày càng hội nhập, sự đồng cảm với các nền văn hóa khác có thể khuyến khích cả hai có mối quan hệ hòa bình, tương tác kinh doanh và văn hóa hiệu quả.
Toàn cầu hóa cũng đang thay đổi khí hậu kinh tế thế giới. Giao thương giữa các quốc gia cho phép nhiều nền kinh tế di chuyển đến các khu vực mới. Phát triển kinh tế thành công thường đi kèm với việc chuyển đổi chuỗi giá trị công nghiệp. Do đó, đào tạo trong một lĩnh vực chuyên môn cụ thể nhanh chóng trở nên lỗi thời, và khi sự nghiệp của mỗi cá nhân trở nên đa dạng hơn, thì sự linh hoạt, cũng như khả năng nhanh chóng học các kỹ năng mới, là bắt buộc. Công nghệ càng phát triển nhanh chóng thì những yêu cầu này càng được chú trọng, vì các máy móc của tương lai sẽ ít giống với các máy móc trong quá khứ. Kiến thức đã trở thành một lợi thế cạnh tranh cốt lõi cho cả cá nhân và nền kinh tế, và các kỹ năng chung được nuôi dưỡng bởi nền giáo dục khai phóng dường như sẵn sàng để hướng tới phát triển về giá trị hơn là chỉ các kĩ năng chuyên môn.
Những cách làm việc mới đang đi cùng xu hướng hướng tới hội nhập toàn cầu. Như Michael Gibbons (1998) đã lập luận, sự gia tăng số lượng tri thức có nghĩa là, “dù kể bạn đang ở đâu, hơn 99% kiến thức cần thiết nằm ở nơi khác.” Vì vậy, các kết nối mới phải được phát triển, xuyên suốt các ngành và các nền văn hóa khác nhau. Mạng lưới chuyên gia, “nổi phồng như mật mía trên lò” như việc nguồn lực trí tuệ từ “khu vực này đến khu vực khác, vấn đề này cho vấn đề khác, nhóm lại thành nhóm”, có khả năng đẩy các nền kinh tế tiến lên. Tư duy cũng như cách làm này là điểm chìa khóa cho một nền giáo dục khai phóng tốt, khuyến khích sinh viên kết nối các ngành học và rút ra ý tưởng của người khác, đồng thời làm việc cùng nhau để thúc đẩy học tập và giải quyết các vấn đề.
Phát triển một nền giáo dục khai phóng
Những người thiết kế chương trình giáo dục khai phóng tại các nước đang phát triển đang gặp phải một số câu hỏi quan trọng.
Câu hỏi đầu tiên là dạy gì. Giáo dục khai phóng ở phương Tây theo thời gian đã phát triển một thực đơn rộng rãi, trong đó có cả lịch sử, chính trị, văn học, ngôn ngữ, khoa học, vật lý và sinh học. Các nước đang phát triển có cơ hội học hỏi từ kinh nghiệm của phương Tây, nhưng họ cũng cần tính đến khía cạnh kinh tế, xã hội và chính trị của nước mình.
Đọc thêm: Tại sao giáo dục khai phóng và nhân văn quan trọng như kỹ thuật?
"Khi các bậc phụ huynh hỏi tôi bây giờ bọn trẻ nên theo đuổi nghề nghiệp gì và liệu hướng chúng vào các lĩnh vực khoa học, kỹ thuật và công nghệ có phải là điều tốt nhất hay không?
Tôi nói với họ rằng tốt nhất là để chúng tự đưa ra những lựa chọn của riêng mình.
Họ không nên làm những thứ mà cha mẹ chúng ta đã làm cho chúng ta ngày xưa – đó là bảo chúng ta nên học cái gì và khiến chúng ta xem việc học là việc vặt vãnh, không quan trọng; thay vào đó, họ nên khuyến khích con cái theo đuổi sự đam mê và tình yêu trong học tập.
Để tạo ra một tương lai tuyệt vời mà công nghệ đang cho phép, chúng ta cần các nhạc sĩ và nghệ sĩ cùng làm việc với các kỹ sư của chúng ta. Không phải là cái này hay cái kia; mà chúng ta cần cả nhân văn và kỹ thuật."
Nguồn link: https://fuv.edu.vn/tai-sao-giao-duc-khai-phong-va-nhan-van-cung-quan-trong-nhu-ky-thuat/
Đọc thêm: Tại sao quốc gia đang phát triển không nên bỏ qua giáo dục khai phóng
"Văn minh phương Tây là cái nôi lâu đời của truyền thống giáo dục khai phóng, được định nghĩa là giáo dục nhấn mạnh vào sự phát triển toàn diện của một cá nhân ngoài việc đào tạo ngành nghề nghiệp (một cách hẹp hơn). Sự khởi đầu của triết lý này có thể được bắt nguồn từ bộ ba – trivium – các khoá học cơ bản của trường đại thời trung đại (gồm ngữ pháp, hùng biện, và tư duy logic) và bộ tứ – quadrivium (số học, hình học, thiên văn học và âm nhạc). Truyền thống đó vẫn tiếp tục, và ngày nay giáo dục khai phóng là một phân khúc quan trọng của giáo dục đại học ở tất cả các nước phát triển. Vai trò của giáo dục khai phóng trong việc nuôi dưỡng các nhà lãnh đạo và những công dân hiểu biết được công nhận trong cả lĩnh vực công và tư nhân.
...Một người được coi là ảnh hưởng của giáo dục khai phóng là người:
• có thể tư duy phản biện rõ ràng, hiệu quả, và có thể giao tiếp với độ chính xác, hợp lý và thuyết phục;
• có một cách đánh giá sâu sắc về phương cách tìm kiếm tri thức và sự hiểu biết về vũ trụ, xã hội và chính con người chúng ta;
• có kiến thức rộng về các nền văn hóa khác nhau ở các thời điểm khác nhau, và có thể đưa ra các quyết định dựa trên sự tham khảo rộng hơn về thế giới và lực lượng trong lịch sử hình thành nên thế giới;
• có một số hiểu biết và kinh nghiệm về tư duy có hệ thống về đạo đức vềcác vấn đề liên quan đến đạo đức và phẩm chất
• đã đạt được chiều sâu trong một số lĩnh vực tri thức.
Bằng cách dạy học sinh tư duy như thế nào thay vì tư duy về cái gì, và cách học như thế nào hơn là học cái gì, giáo dục khai phóng tạo ra những sinh viên tốt nghiệp có khả năng thích ứng tốt hơn và đáp ứng nhu cầu của một môi trường kinh tế và xã hội thay đổi nhanh. Nhưng trong sự vội vàng để đáp ứng với một thế giới thay đổi nhanh chóng, rất dễ dàng để bỏ qua các mục tiêu dài hạn. Quan điểm cho rằng các kỹ sư chỉ nên học các khía cạnh kỹ thuật trong ngành của họ, ví dụ, bỏ qua tác động xã hội và môi trường trong công việc. Kỹ năng thiết kế và bảo trì đường bộ là điều cần thiết cho tất cả các quốc gia, nhưng nếu các nhà lập kế hoạch và các nhà hoạch định chính sách không nhận ra và xem xét các quan điểm của người dân địa phương, các tác động tiêu cực đến xã hội thì dự án có thể vượt quá tầm kiểm soát và cuối cùng có thể đe dọa đến lợi ích kinh tế. Một ví dụ khác, thực phẩm biến đổi gen (GM) đang tạo ra một nhu cầu rất lớn và ngày càng cấp thiết một cơ quan chuyên môn kỹ thuật mới ở các nước đang phát triển. Tính chuyên nghiệp là cần thiết nếu các quốc gia này tận dụng lợi ích của các loại thực phẩm đó (ví dụ, dinh dưỡng, sức khỏe, chi phí), trong khi tìm cách giảm thiểu rủi ro (ví dụ, các loài xâm hạimới, bệnh thực vật, động vật và người mới không có được biết đến chữa bệnh, và phụ thuộc nông nghiệp lớn hơn trên các nhà cung cấp hạt giống phát triển trong nước). Thực phẩm biến đổi gen cũng gây ra nhiều vấn đề phức tạp vượt ra ngoài tầm kiểm soát của khoa học, bao gồm các vấn đề liên quan đến đạo đức, quy định công cộng, thực hành kinh doanh, đời sống cộng đồng, toàn cầu hoá và quản trị thế giới. Thật khó để tưởng tượng các nước giải quyết những vấn đề này và các vấn đề tương tự một cách hiệu quả mà không có sự lãnh đạo, hoặc ít nhất là sự trợ giúp từ các cá nhân hưởng nền giáo dục khai phóng mạnh mẽ.
Nhiều lợi ích của giáo dục khai phóng là hữu hình dưới hình thức thu nhập cao hơn và tích luỹ chủ yếu cho những cá nhân nhận giáo dục. Nhưng cũng có những lợi ích vô hình, nhiều trong số đó được hưởng bởi các thành viên khác của xã hội. Mặc dù rất khó để đưa ra bằng chứng thuyết phục, chúng ta có thể nghĩ về sáu kênh chính thông qua đó xã hội mong được hưởng lợi từ các chương trình giáo dục khai phóng. Đương nhiên, khả năng ứng dụng và tầm quan trọng sẽ khác nhau giữa các quốc gia. Tất cả các hình thức giáo dục đại học tạo ra lợi ích quốc gia nhưng giáo dục khai phóng tạo ra một bộ lợi ích cụ thể thông qua các kênh được mô tả dưới đây.
Kênh đầu tiên là kinh tế. Chúng tôi nghĩ rằng các lãnh đạo doanh nghiệp có nhiều khả năng đổi mới hơn nhờ các nghiên cứu thường từ giáo dục khai phóng. Đối với các nền kinh tế đang phát triển, sự đổi mới này có thể có nghĩa là chuyển sang các lĩnh vực mới, hiệu quả hơn và thích ứng với các công nghệ phát triển ở nơi khác để tạo việc làm mới và giảm nghèo ở nhà. Giáo dục khai phóng, khuyến khích mọi người đặt câu hỏi và thách thức tư duy và thực hành thông thường, có thể là một chất xúc tác quan trọng giúp tăng tính thông thoáng của nền kinh tế. Ngoài ra, theo quan sát của Thomas Jefferson, giáo dục khai phóng có thể nâng cao giá trị xã hội về khía cạnh công trạng, trái ngược với địa vị xã hội hay sự giàu có từ sinh thời. Ở nhiều nước đang phát triển, sự lạm dụng quyền hành làm cản trở phát triển kinh tế.
Kênh thứ hai, giáo dục ảnh hưởng đến việc hoạch định chính sách. Không có công thức tiêu chuẩn nào để đạt được mục tiêu phát triển, nhưng từ phần lớn bằng chứng chúng tôi cho rằng quản trị tốt, quản lý kinh tế vĩ mô tốt, quan tâm đến giáo dục và sức khỏe, và hội nhập vào nền kinh tế thế giới là những động thái hữu ích. Tất cả các công cụ phát triển này (một số trong đó – như y tế và giáo dục – là mục tiêu của bản thân) đòi hỏi cả kiến thức chung và chuyên môn cũng như kỹ năng.
Ảnh hưởng của giáo dục khai phóng trong việc tham gia hoạt động chính trị cũng là một nguồn lợi cho cộng đồng. Người lãnh đạo mạnh giúp đất nước đi lên, nhưng một người dân tri thức và tích cực có thể giúp cân bằng cán cân quyền lực quốc gia. Dân chủ đại diện, đóng góp tích cực vào việc duy trì nền kinh tế và ổn định xã hội lâu dài ở phương Tây, phụ thuộc mật thiết vào đại đa số công dân hiểu biết và có khả năng thích ứng và làm việc với những ý tưởng phức tạp. Bằng việc lan tỏa tri thức và gia tăng tranh luận, mở rộng giáo dục khai phóng không chỉ ở các nhóm ưu tú mà sẽ giúp công dân tham gia nhiều hơn.
Kênh thứ tư là ảnh hưởng đến gắn kết xã hội. Bằng cách đưa ra loạt các quan điểm khác nhau và khuyến khích các sinh viên kết nối giữa các ngành và nền văn hóa khác nhau, chúng tôi hy vọng rằng giáo dục khai phóng thúc đẩy lòng vị tha và hiểu biết lẫn nhau. Giáo dục khai phóng cũng giúp nuôi dưỡng ý thức cộng đồng và cùng nhau làm việc hướng tới mục tiêu. Và, bằng cách mở rộng và làm sâu sắc thêm kiến thức về lịch sử, nghệ thuật và khoa học, nuôi dưỡng niềm tự hào về văn hóa và sự tôn trọng với người khác. Do đó, giáo dục khai phóng có thể có ảnh hưởng mạnh mẽ đến tinh thần cộng đồng, mà các nước đang phát triển và phát triển hướng tới nếu xã hội của họ phải làm việc cùng nhau để giải quyết vấn đề và nắm bắt cơ hội.
GIảm chảy máu chất xám là điểm thứ năm giáo dục khai phóng có thể mang cho xã hội. Người có cơ hội nhận được một nền giáo dục được thiết kế tốt, có các cơ sở giáo dục nước ngoài ngay tại nước sở tại có nhiều khả năng theo đuổi việc học và tránh chi phí đi ra nướic ngoài. Điều này có thể mang lại những lợi ích cho phụ nữ, khi gia đình của họ có thể miễn cưỡng để họ học ở nước ngoài. Tương tự như vậy, những sinh viên học tập ở các nước khác có nhiều cơ hội trở về nhà hơn, bởi biết rằng ở đó họ cũng tìm thấy một môi trường nhiều cảm hứng. Một ích lợi đến từ thực tế nữa là, nền giáo dục khai phóng thúc đẩy văn hóa học tập suốt đời, thúc đẩy sự phát triển của một nền văn hóa trí tuệ sôi động và khuyến khích các chuyên gia được đào tạo ở các quốc gia khác về làm việc tại quê hương, vì lợi nước mà làm.
Kênh cuối cùng liên quan đến toàn cầu hóa. Chúng tôi tin rằng giáo dục khai phóng thúc đẩy sự gắn kết không chỉ bên trong, mà còn giữa các cộng đồng, dân tộc. Nghiên cứu các tôn giáo của thế giới, ví dụ, có thể giúp học sinh thấy sự liên kết lẫn nhau đồng thời hiểu biết và đánh giá cao sự khác biệt. Văn học, lịch sử và ngôn ngữ đã làm sáng tỏ cách suy nghĩ trong quá khứ và hiện tại của một quốc gia. Trong một thế giới ngày càng hội nhập, sự đồng cảm với các nền văn hóa khác có thể khuyến khích cả hai có mối quan hệ hòa bình, tương tác kinh doanh và văn hóa hiệu quả.
Toàn cầu hóa cũng đang thay đổi khí hậu kinh tế thế giới. Giao thương giữa các quốc gia cho phép nhiều nền kinh tế di chuyển đến các khu vực mới. Phát triển kinh tế thành công thường đi kèm với việc chuyển đổi chuỗi giá trị công nghiệp. Do đó, đào tạo trong một lĩnh vực chuyên môn cụ thể nhanh chóng trở nên lỗi thời, và khi sự nghiệp của mỗi cá nhân trở nên đa dạng hơn, thì sự linh hoạt, cũng như khả năng nhanh chóng học các kỹ năng mới, là bắt buộc. Công nghệ càng phát triển nhanh chóng thì những yêu cầu này càng được chú trọng, vì các máy móc của tương lai sẽ ít giống với các máy móc trong quá khứ. Kiến thức đã trở thành một lợi thế cạnh tranh cốt lõi cho cả cá nhân và nền kinh tế, và các kỹ năng chung được nuôi dưỡng bởi nền giáo dục khai phóng dường như sẵn sàng để hướng tới phát triển về giá trị hơn là chỉ các kĩ năng chuyên môn.
Những cách làm việc mới đang đi cùng xu hướng hướng tới hội nhập toàn cầu. Như Michael Gibbons (1998) đã lập luận, sự gia tăng số lượng tri thức có nghĩa là, “dù kể bạn đang ở đâu, hơn 99% kiến thức cần thiết nằm ở nơi khác.” Vì vậy, các kết nối mới phải được phát triển, xuyên suốt các ngành và các nền văn hóa khác nhau. Mạng lưới chuyên gia, “nổi phồng như mật mía trên lò” như việc nguồn lực trí tuệ từ “khu vực này đến khu vực khác, vấn đề này cho vấn đề khác, nhóm lại thành nhóm”, có khả năng đẩy các nền kinh tế tiến lên. Tư duy cũng như cách làm này là điểm chìa khóa cho một nền giáo dục khai phóng tốt, khuyến khích sinh viên kết nối các ngành học và rút ra ý tưởng của người khác, đồng thời làm việc cùng nhau để thúc đẩy học tập và giải quyết các vấn đề.
Phát triển một nền giáo dục khai phóng
Những người thiết kế chương trình giáo dục khai phóng tại các nước đang phát triển đang gặp phải một số câu hỏi quan trọng.
Câu hỏi đầu tiên là dạy gì. Giáo dục khai phóng ở phương Tây theo thời gian đã phát triển một thực đơn rộng rãi, trong đó có cả lịch sử, chính trị, văn học, ngôn ngữ, khoa học, vật lý và sinh học. Các nước đang phát triển có cơ hội học hỏi từ kinh nghiệm của phương Tây, nhưng họ cũng cần tính đến khía cạnh kinh tế, xã hội và chính trị của nước mình.
Nội dung của chương trình giáo dục khai phóng sẽ thay đổi một cách tự nhiên giữa các quốc gia. Mỗi quốc gia sẽ cần phải học các bài học ở nơi khác và áp dụng sáng tạo phù hợp với nhu cầu riêng của quốc gia mình. Ví dụ, ở khi Nam Phi, nơi tiếng Anh được nói rộng rãi, nên có thể không cần các khóa học ngôn ngữ giống như Hàn Quốc, thay vào đó có thể tập trung đặc biệt vào nhu cầu của đất nước để xây dựng các thể chế mạnh mẽ. Theo đó, các chủ đề như luật, triết học, kinh tế và chính trị có thể quan trọng hơn. Thiết kế một chương trình giáo dục khai phóng cung cấp cơ hội để đặt câu hỏi cơ bản về những gì quan trọng đối với một xã hội cụ thể. Nó mang lại cơ hội để tập trung vào lịch sử, văn hóa và giá trị của đất nước. Điều này sẽ giúp tiếp thêm sinh lực cho toàn bộ hệ thống giáo dục đại học – và, theo thời gian, có thể thay đổi cách xã hội nghĩ về bản thân nó.
Sau khi đã xác định việc dạy gì, người dạy tiếp theo cần quyết định về phương pháp dạy. Mô hình người học thụ động kiểu thuộc lòng là đặc trưng cho rất nhiều thể chế giáo dục đại học tại các quốc gia đang phát triển, khiến vấn đề này trở nên đặc biệt quan trọng. Phương pháp mới yêu cầu sinh viên cần chủ động, thích ứng hơn trong hợp tác thực hiện những công việc mà một xã hội tri thức yêu cầu. Một hệ thông giáo dục khai phóng phát triển có thể mang lại cho những cử nhân khởi đầu trong việc phát triển những kĩ năng cần thiết trong làm việc nhóm để giải quyết vấn đề và tìm kiếm giải pháp.
Câu hỏi thứ ba mà các nhà thiết kế chương trình giảng dạy đối mặt là làm thế nào để làm cho sinh viên nhận thức được giá trị của giáo dục khai phóng. Hiện nay, như chúng ta đã thấy, đào tạo chuyên ngành thường có sức hút mạnh mẽ hơn các môn học tổng quát. Việc cộng tác với các nhà tuyển dụng trong việc thúc đẩy giáo dục khai phóng là rất quan trọng. Ví dụ, Đại học Quốc gia Singapore đã đưa ra một chương trình giáo dục khai phóng mới cho một số sinh viên đại học, với mục tiêu đầy tham vọng rằng những sinh viên này có thể sánh ngang với các trường đại học có nền tảng lâu đời hơn thành lập ở các nước phát triển (www.nus.edu.sg ). Nỗ lực này có sự hỗ trợ của các công ty địa phương, những tuyên bố về giá trị của khóa học có thể có ảnh hưởng mạnh mẽ đến phụ huynh và học sinh (Task Force, 90). Sự có mặt của một chương trình giáo dục khai phóng là không thể cản làn sóng đào tạo nghề/chuyên môn. Do đó, những nỗ lực hòa hợp là cần thiết để nâng cao nhận thức về tầm quan trọng của giáo dục khai phóng đối với cả cá nhân và xã hội.
Tiếp cận giáo dục là vấn đề chính cuối cùng. Do tỷ lệ sinh viên và giáo viên thường thấp, giáo dục khai phóng có xu hướng đắt hơn so với đào tạo chuyên môn, và do đó không phải tất cả học sinh ở các nước nghèo hơn đều có thể được cung cấp một khóa học giáo dục khai phóng. Những trường đại học với truyền thống xây dựng lâu đời trong lĩnh vực giáo dục sẽ có thể cung cấp các chương trình chuyên sâu hơn, nhưng để giáo dục khai phóng đóng góp đầy đủ hơn cho xã hội, việc mở rộng quy mô vượt ra ngoài các nhóm ưu tú là cần thiết. Đại học tư nhân Aga Khan của Pakistan (AKU) sử dụng một số khoản tài trợ để cấp học bổng để mở rộng khóa học nghệ thuật và khoa học tự do còn non trẻ của mình vượt ra ngoài các nhóm giàu có.
Mặc dù khó để khái quát hóa về chủ đề này bởi các hệ thống giáo dục chuyên nghiệp rất đa dạng, việc thiết lập giáo dục phổ thông như một thành phần của các khóa học kỹ thuật và chuyên nghiệp là một phương pháp đầy hứa hẹn để mở rộng tiếp cận giáo dục khai phóng. Điều này sẽ giúp mở rộng việc học của các chuyên gia và cung cấp cho họ một nền tảng tốt hơn để đối phó với những điều kiện kinh tế – xã hội thay đổi. Thúc đẩy giáo dục khai phóng trong các khóa học chuyên nghiệp cũng sẽ giúp các sinh viên đó kết nối các mục tiêu xã hội rộng hơn tương tác với bản thân họ, với nhiều người khác ở các quốc gia của họ. Học sinh có thể được giáo dục nghệ thuật khai phóng trong một năm trước khi chuyển sang khóa học chuyên ngành của họ; hoặc, cả hai có thể chạy đồng thời. Theo mục tiêu này, Trường AKU (www.aku.edu) khẳng định rằng, sinh viên tốt nghiệp từ trường y khoa của mình có thể “có khả năng lãnh đạo trong các vấn đề liên quan đến xã hội”.
Nguồn link: https://cvdvn.net/2018/06/26/tai-sao-nuoc-dang-phat-trien-khong-nen-bo-qua-giao-duc-khai-phong/
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét