Chủ Nhật, 13 tháng 9, 2020

Quần Tiên Hội

Bạch Liên

Source: https://kilopad.com/Ton-giao-Tu-tuong-c40/doc-sach-truc-tuyen-luat-luan-hoi-b3420/chuong-37-quan-tien-hoi-va-su-cai-tri-the-gian-ti37 

Thiên Đình cũng gọi là Quần Tiên Hội, là một đoàn thể gồm những vị Siêu phàm thay mặt cho Đức Thái Dương Thượng Đế cai trị thế gian. Cai trị ở đây nghĩa là điều khiển sự sanh hóa và sự tiến hóa của các loài vật trên Địa cầu cho đúng với Cơ Trời.

NGÔI THỨ TRÊN THIÊN ĐÌNH

Trên hết và Chủ tể Quần Tiên Hội là Đức NGỌC ĐẾ, được 9 lần Điểm đạo.

Kế đó là bốn vị Phật, được 8 lần Điểm đạo. Ba vị Phật ở Cung Thứ Nhứt gọi là Độc Giác Phật (Pratyéka Bouddha ou Pachcheka Bouddha) và một vị Phật ở Cung Thứ Nhì gọi là Phật Đạo Đức (Bouddha).

Tam Thanh được 7 lần Điểm đạo:

1)- Đức Bàn Cổ (Manou)

2)- Đức Bồ Tát (Bodhisatva)

3)- Đức Văn Minh Đại Đế (Maha Chohan)

Dưới Tam Thanh là 7 vị Đế Quân, được 6 lần Điểm đạo. Mỗi vị coi sóc một Cung.

Dưới các vị Đế Quân là những vị A-Sơ-Ca, những vị Chơn tiên được 5 lần Điểm đạo.

Dưới Chơn Tiên là những vị Đệ tử được Điểm đạo từ một lần tới bốn lần. Phật giáo gọi là Tứ Thánh.

a)   Những vị La Hán (Arhat) được 4 lần Điểm đạo.

b)   Những vị A Na Hàm (Anagamin) được 3 lần Điểm đạo.

c)   Những vị Tư Đà Hàm (Sakridagamin) được 2 lần Điểm đạo.

d)   Những vị Tu Đà Hườn (Sotapanna) được 1 lần Điểm đạo.

NHIỆM VỤ CỦA MỖI VỊ

Các Thánh kinh đều dạy rằng: Chỉ nên nói những điều nầy cho những người thành tâm mộ Đạo mà thôi. Nếu lọt vào tai những người chưa thông thạo Đạo Lý Thánh Hiền thì họ không hiểu chi hết. E có khi họ sanh lòng bất kính, ngạo báng, khinh khi thì họ sẽ gây quả xấu cho họ về sau. Vậy khá thận trọng. Thế nên tôi xin nói về nhiệm vụ của các Ngài một cách kính cẩn và vắn tắt.

ĐỨC NGỌC ĐẾ

Trên mỗi bầu Hành tinh có ba vị Thánh đế thay mặt cho Đức Thái Dương Thượng Đế, để cai trị và điều khiển một cách tuyệt đối sự sanh hóa của các loài vật trên đó, mỗi vị trong một kỳ gian.

Tại cõi Trần, người ta gọi các Ngài là ba vị NGỌC ĐẾ.

Đức Ngọc Đế hiện kim là Đức Ngọc Đế thứ ba. Hai vị trước đã mãn nhiệm kỳ lâu lắm rồi. 16 triệu rưởi năm trước, lúc Giống dân thứ Ba phân chia nam nữ thì Ngài từ Kim Tinh xuống với những vị khác:

a)   Ba vị Độc Giác Phật, đệ tử của Ngài.

b)   Lối 25 vị Đại Thánh đủ các cấp bực, và

c)   105 thường dân ở Kim Tinh mà Ngài cho đầu thai chung lộn với nhân loại trên Địa cầu.

Ngài qua Địa cầu với ba mục đích.

Một là: Cầm quyền cai trị và điều khiển sự tiến hóa của các loài vật trên Địa cầu trong giai đoạn thứ ba.

Hai là: Lập Quần Tiên Hội.

Ba là: Thúc đầy sự phát triển trí tuệ.

Ngài đem theo nhiều thứ cây cỏ trong đó có lúa mì và hai loài: ong và kiến.

Mật ong và lúa mì là hai món thực phẩm bổ dưỡng nhứt, còn ong và kiến giúp cho cây cối kết trái mau lẹ. Ngày nay các nhà bác học chưa truy ra được vì nguyên nhân nào mà đời sống tập thể của loài ong và kiến lại không giống các loài thú khác trên Địa cầu.

TÁC CỦA NGÀI

Tác của Ngài bằng một vị thanh niên mười sáu xuân xanh, do phép thần thông hóa ra. Đã mười sáu triệu rưởi năm rồi, không dùng một món chi mà vẫn không già, không cỗi. Thật là vóc ngọc mình vàng, trường sanh bất tử.

Kinh sách cổ Ấn Độ xưng tụng Ngài là Sanat Koumara (Sa Na Cu Ma Ra). Sanat là một tên của Đức Thượng Đế Brahma, còn Koumara có hai nghĩa: một là thanh niên, hai là Vương đế.

Người ta gọi Ngài và ba vị Độc Giác Phật là bốn vị Hồng Quân (Les 4 Seigneure de la Flame, Les Enfants du brouillard de Feu, Les Fils du Feu). Các Ngài là những vị Thiên Tôn Manasaputras (Ma Na Sa Pu Tra) giúp cho con người mở mang trí tuệ.

THÚC ĐẨY SỰ PHÁT TRIỂN TRÍ TUỆ

Các Ngài chiếu hào quang vào con người, nhờ từ điển của các Ngài mà tia sáng thiêng liêng trong mình con người bừng chói sáng rỡ trong chớp nhoáng không khác nào ánh sáng mặt trời làm cho cái bông đang búp nở ra vậy.

Nhờ các Ngài mà trí tuệ của con người phát triển trước một Cuộc Tuần Hườn, bởi vì trong Cuộc Tuần Hườn thứ Tư nầy, đúng phép là con người mới mở mang cái Vía tức tình cảm. Qua Cuộc Tuần Hườn sau tức là Cuộc Tuần Hườn thứ Năm thì cái Trí con người mới hoạt động mạnh mẽ. Cuộc Tuần Hườn thứ Năm mới là Cuộc Tuần Hườn của Trí tuệ (Ronde Mentale).

Cả triệu con thú cũng nhờ các Ngài giúp đỡ theo cách đó mà có Thượng trí, được đi đầu thai làm người, trước khi "cánh cửa thiên nhiên đóng lại giữa con người và thú vật".

QUYỀN NĂNG CỦA ĐỨC NGỌC ĐẾ

Tâm của Ngài thông suốt từ cõi Tối Đại Niết Bàn cho tới cõi Trần. Hào quang của Ngài bao trùm quả Địa cầu cho nên không có một con kiến nào chết mà Ngài không hay, hoặc là một sự vật bất công nào xảy ra ở bất cứ nơi nào mà Ngài không biết, bởi vì tại Trái đất nầy, Ngài vốn toàn năng, toàn giác, toàn thiện, vô sở bất tại.

Ngài dùng được tất cả những trạng thái siêu việt của Fohat, thần lực của Thái Dương Thượng Đế và luôn những thần lực của Vũ trụ ở ngoài địa cầu.

Thường thường thì Ngài lo lắng cho sự tiến hóa chung của Nhân loại, nhưng khi Ngài để ý đến một người nào thì Ngài giúp ngay Atma, tức là Chơn thần của người ấy, nhờ vậy y tiến tới một cách mau lẹ.

Duy có một mình Ngài được phép Điểm đạo mà thôi. Không có sự ưng thuận của Ngài thì không một ai được vào Quần Tiên Hội. Luôn luôn trong hai kỳ Điểm đạo đầu tiên: lần thứ nhứt và lần thứ nhì. Ngài nhờ Đức Bồ Tát [[1]] nhân danh Ngài mà Điểm đạo. Qua kỳ Điểm đạo lần thứ Ba, lần thứ Tư thì Ngài Điểm đạo, hoặc là Ngài giao cho một vị Độc Giác Phật nhân danh Ngài.

Có những vị La Hán nói rằng: Ngài oai nghi lẫm liệt cho đến đỗi các vị ấy quì trước mặt Ngài, nắm nắm, nóp nóp, chẳng dám ngó lên, có khi phải lấy tay bụm mắt vì chịu không nổi cái nhìn của Ngài và hào quang rực rỡ của Ngài.

Chỉ có một mình Ngài xử dụng cây PHÁP LỊNH mà thôi.

CÂY PHÁP LỊNH

Cây Pháp Lịnh tượng trưng uy quyền tối thượng của Đức Ngọc Đế. Nó hình tròn dài lối sáu tấc, bề trực kính năm phân, hai đầu gắn hai hột xoàn tròn, lớn và đầu nhọn. Nó làm bằng một thứ kim khí tương tợ như vàng gọi là Oricalcum, mà ngày nay thứ đó không còn trên mặt Địa cầu nữa. Luôn luôn có một thứ lửa chói sáng ngời và trong vắt bao bọc nó.

Đức Hành Tinh Thượng Đế (Logos Planétaire) truyền thần lực của Ngài vô cây Pháp Lịnh nầy, khi mà lần đầu tiên Ngài cho Linh hồn của nhơn vật xuống đầu thai ở Dãy Địa Cầu nầy.

Cây Pháp Lịnh là một trung tâm để thâu nhận thần lực của Ngài. Nó là chỗ Ngài tập trung tư tưởng. Người ta đem nó từ Bầu Hành Tinh nầy sang Bầu Hành Tinh kia, tùy theo Đức Hành Tinh Thượng Đế chủ ý đến Bầu Hành Tinh nào, bởi vì chốn đó là trường tiến hóa của các loài vật. Không rõ cây Pháp Lịnh nầy khi qua ở những Bầu Hành Tinh vô hình thì bằng cách nào? Chẳng ai biết được.

Ngoài những việc trên đây, cũng chẳng rõ ngày thường nó dùng để làm gì, chỉ nghe nói rằng: Khi nó bỏ Bầu Hành Tinh nào rồi thì sự hoạt động của Bầu Hành Tinh đó đã chấm dứt. Sanh khí đã mất hết chín phần mười, chỉ còn một phần mười đủ dùng cho nhơn vật theo đường tiến hóa của Nội Cảnh Tuần Hườn. Thế nên cây Pháp Lịnh nầy liên quan đến sự sanh tồn của các loài vật trên mỗi Bầu Hành Tinh.

Ngày thường nó chỉ ở tại Thiên Cung SAMBALLA (Sam Ba La) và dường như nó có hai trường hợp được đem ra ngoài: Một lần là lúc lễ Điểm Đạo, một lần nữa trong lúc lễ Vía Phật Thích Ca. Trong lúc làm lễ, duy có một mình Đức Bồ Tát được phép cầm nó mà thôi.

THIÊN CUNG

Thiên Cung ở tại Bồng Lai đảo (Île Blanche) – thuở xưa là một hải đảo ở chính giữa biển Qua Bích (Mer de Gobi) dẫy đầy kỳ hoa dị thảo, phong cảnh u nhàn, tại Địa cầu không có chốn nào sánh kịp. Mười sáu triệu rưởi năm trước, ấy là món quà của Trái đất kính cẩn dâng lên cho vị Thánh Đế của mình.

Bồng Lai đảo tức là Bồng Lai trong các truyện Thần tiên của Trung Hoa đã miêu tả. Sau những cuộc tang thương, Đại hải Qua Bích biến thành sa mạc, nhưng không chút chi hề hấn. Bây giờ nó là một ốc đảo, gọi là Sam Ba La (Samballa) và không khác nào là trái tim của quả Địa cầu. Những luồng trược khí đều gom lại đó, rồi mới biến đổi ra thanh khí để nuôi dưỡng các loài như cũ, không nghỉ không ngừng.

V.- Những người du mục, những người thám hiểm đến sa mạc Qua Bích (Désert de Gobi) có được gặp Thiên Cung chăng ?

Đ.- Phải được từ ba lần Điểm đạo trở lên và có lịnh vời mới tới đó được. Chứ người thường, lòng còn tràn trề dục vọng, che mất thiên lương thì dầu có tới sa mạc Qua Bích và thám hiểm liên tiếp trong vòng 10 ngàn năm đi nữa, chớ đừng nói 9, 10 năm, cũng không mong lại gần được Thiên Cung, nói chi là thấy nó bởi vì họ bị các Thiên thần án mắt.

HỘI QUẦN TIÊN

Bảy năm một lần, Đức Ngọc Đế cho vời các Tiên Thánh trên Địa cầu, có khi vài vị La Hán được mời tới Thiên Cung dự một cuộc lễ, dưới quyền chủ tọa của Ngài.

Cuộc lễ nầy lớn hơn và quan trọng hơn lễ Huê Sắc (Vésak) (Lễ Vía Phật Thích Ca) và có một đặc tánh khác hơn.

Người thường không rõ mục đích của cuộc lễ nầy, nhưng người ta có thể ước đoán rằng dầu sao cũng có sự xem xét những việc xảy ra trên cõi Trần và những điều của Quần Tiên Hội đã thực hiện trong thời gian đó.

Cuộc hội hiệp nầy cũng là một dịp để cho Tiên Thánh tiếp xúc với vị Chúa Tể của mình, bởi vì ngày thường Ngài chỉ tiếp kiến những vị Chủ Tể của các Cung như Đức Phật, Đức Bồ Tát, Đức Bàn Cổ, Đức Văn Minh Đại Đế và các vị Đế Quân mà thôi; ngoại trừ khi cần thiết, Ngài mới cho vời đương sự đến trước mặt Ngài. Có lẽ vịn theo đây mà truyện Tàu đặt ra Hội Bàn Đào, Tây Vương Mẫu mời các Thần Tiên đến dự gọi là Quần Tiên Đại Hội.

NHIỆM VỤ CỦA NGÀI RẤT QUAN TRỌNG

Nhiệm vụ của Đức Ngọc Đế thứ Ba quan trọng hơn nhiệm vụ của hai vị trước.

Ngài phải điều khiển sự tiến hóa của nhơn vật cho đến mức độ của Cơ Trời đã định sẵn cho họ tại Bầu Trái Đất nầy trước khi chấm dứt mọi hoạt động. Khi Giống dân thứ Bảy đã tàn, xong nhiệm vụ rồi, thì Ngài đem cả ngàn triệu Linh hồn trao cho Đức Bàn Cổ Mầm Giống (Manou Semence) săn sóc và chịu trách nhiệm trong khi họ nghỉ ngơi ở cõi Niết Bàn. Đúng ngày giờ thì Đức Bàn Cổ Mầm Giống sẽ giao họ lại cho Đức Bàn Cổ Cội Rễ (Manou Racine). Đấng Chí Tôn nầy mới đem họ qua Bầu Hành Tinh thứ Năm là Bầu Thủy Tinh, cho họ đầu thai đặng tiếp tục sự tiến hóa của họ ở trên đó.

VỊ PHỔ TỊNH ĐẠI ĐẾ

(Le Veilleur Silencieux)

Khi hoàn thành nhiệm vụ cao cả nầy rồi thì Đức Ngọc Đế về cõi khác. Ngài qua một kỳ Điểm đạo nữa là lần thứ Mười. Ngài sẽ thành một vị Phổ Tịnh Đại Đế (Veilleur Silencieux) thế cho Đức Phổ Tịnh Đại Đế hiện kim.

Ngài sẽ lãnh trách nhiệm canh chừng nhơn loại trọn một thời gian bằng một Cuộc Tuần Hườn trên bảy Bầu Hành Tinh.

Bảy Bầu đó là : ba Bầu còn lại của Cuộc Tuần Hườn thứ Tư, và bốn Bầu của Cuộc Tuần Hườn thứ Năm. Ba Bầu còn lại của Cuộc Tuần Hườn thứ Tư là Bầu thứ Năm E (Thủy Tinh – Mercure), Bầu thứ Sáu F và Bầu thứ Bảy G.

Bốn Bầu của Cuộc Tuần Hườn thứ Năm là: Bầu thứ Nhứt A, Bầu thứ Nhì B, Bầu thứ Ba C (Hỏa Tinh - Mars), Bầu thứ Tư D (Địa cầu chúng ta). Đây có nghĩa là: Nhơn loại phải qua ba Bầu chót nữa mới hết Cuộc Tuần Hườn thứ Tư. Rồi qua Cuộc Tuần Hườn thứ Năm, nhơn loại phải trở lại Bầu thứ Nhứt A, Bầu thứ Nhì B, Bầu thứ Ba C (Hỏa Tinh), Bầu thứ Tư D (Địa cầu chúng ta).

Tới chừng nhơn loại rời Địa cầu một lần nữa, Ngài mới giao nhiệm vụ kỳ lạ và nặng nề nầy cho một vị khác lên thay thế cho Ngài.

Hiện giờ Đức đương kim Phổ Tịnh Đại Đế chưa mãn nhiệm kỳ.

A.- BA VỊ ĐỘC GIÁC PHẬT

(Pratyéka Bouddha)

Kinh sách Ấn Độ gọi ba Ngài là :

1) Sanandana,

2) Sanaka,

3) Sanatana.

Ba Ngài sẽ thay phiên nhau lãnh nhiệm vụ NGỌC ĐẾ đặng điều khiển sự tiến hóa trên Bầu Thủy Tinh khi nhơn loại qua đó.

Thân thể của ba Ngài cũng do thần thông hóa ra, muôn kiếp ngàn đời không hề hư hoại. Hiện giờ các ngài ở tại Thiên Cung với Đức Ngọc Đế.

Pratyéka Bouddha dịch là Độc Giác Phật, tôi e không đúng, bởi vì trong chữ Độc Giác có ẩn nghĩa ích kỷ. Pháp dịch là Bouddhas Egoistes, Bouddhas Solitaires. Có lẽ tại người ta cho rằng những vị Độc Giác Phật chỉ lo khai sáng cho mình mà thôi, chớ không độ ai cả. Điều này không đúng với sự thật, người ta lầm vậy.

Chúng ta nên hiểu rằng: Các vị Pratyéka Bouddha thuộc về Cung thứ Nhứt, là Cung Hành chánh, Cung Uy quyền, chớ không phải lo cho các Tôn giáo phát triển.

Hơn nữa, các vị Độc Giác Phật ở Kim Tinh, thuộc Hệ thống Tiến hóa không giống Hệ thống tiến hóa của chúng ta, mà trong nhơn loại cũng chưa có vị nào tu hành tới bực Độc Giác Phật cả.

Nhưng có một điều chắc chắn là từ ngày mới học Đạo cho tới lúc làm một vị Phật, các Ngài đã độ đời rất nhiều, mặc dù nhơn vật đó không phải là nòi giống của chúng ta. Các Ngài đã trải qua nhiều cấp bực Điểm đạo từ một lần lên tới tám lần vậy.

Trong Thái dương hệ, luật Trời chỉ có một. Nếu tu hành mà ích kỷ thì không thể nào thành Chánh quả đâu.

B.- PHẬT ĐẠO ĐỨC

Danh từ Bouddha dịch là Phật, có hai nghĩa :

Một là: Giác - Sáng suốt.

Hai là: Địa vị của Đấng Chí Tôn được 8 lần Điểm đạo, cai quản Cung thứ Nhì ở mấy cõi cao.

Nếu nói: Phật chỉ là Giác mà thôi thì chưa đủ.

BẢY VỊ PHẬT ĐẠO ĐỨC

Trên mỗi Hành Tinh có bảy Giống dân Chánh, tuần tự sanh ra thì phải có bảy vị Phật Đạo Đức, mỗi Giống dân có một vị để điều khiển công việc của Cung thứ Nhì ở mấy cõi cao.

Ba vị Phật của ba Giống dân trước đã điêu tàn rồi là:

1)   Đức Padmatara,

2)   Đức Siki và

3) Đức Kasyapa (Ca Diếp).

Ba Ngài ở Kim Tinh qua giúp Dãy Địa cầu.

ĐỨC PHẬT THỨ TƯ

Đức Phật thứ Tư là Đấng Chí Tôn mà người ta gọi là Đức Thích Ca Mâu Ni. Ngài là Đức Phật của Giống dân thứ Tư, là Giống Át-Lăn (Atlantes). Ngài cũng là người thứ nhứt của nhơn loại đắc quả Phật mới 2.500 năm nay.

Trước khi thành Phật, Ngài đã ở ngôi Bồ Tát và đã giáng phàm nhiều lần. Người ta biết được vài kiếp quá khứ của Ngài như sau đây:

1)- VYASA bên Ấn Độ, lập Ấn Độ giáo.

2)- HERMÈS bên Ai Cập, lập ra Tôn giáo Quang Minh.

3)- ZOROASTRE, vị đầu tiên của 29 vị Zoroastres, lập ra Đạo thờ Lửa, gọi là Hỏa Thần giáo hay Bái Hỏa giáo.

4)- ORPHÉE, ở Hi Lạp, dùng Âm nhạc và Thi ca đặng giáo hóa, còn nhiều kiếp nữa chưa tri ra.

VÌ SAO CÓ PHẬT RA ĐỜI ?

Khi có một Giống dân nào đó gần tàn rồi thì Đức Bồ Tát của Giống dân đó giao quyền Chưởng giáo cho Đức Đế Quân Chưởng quản Cung thứ Nhì lên kế vị cho Ngài. Còn Ngài thì qua cõi khác 

và qua một lần Điểm đạo nữa; lần nầy là lần thứ tám và làm một vị Phật Đạo Đức.

Thành Phật rồi thì Ngài lâm phàm lần chót đặng dạy Đạo. Xong rồi thì Ngài trở về Thiên Đình lãnh nhiệm vụ Chủ Tể Cung thứ Nhì . . . Từ đó Ngài không còn dính dấp tới trần ai nữa.

Kiếp chót, Đấng Chí Tôn mà ta gọi là Đức NHƯ LAI mượn xác Thái tử Sĩ Đạt Ta, con vua Tịnh Phạn (Shudodana) bên Ấn Độ.

Trước khi giáng phàm, Ngài sắp đặt thế nào cho những vị Đệ tử của Ngài mấy kiếp trước, đi đầu thai hoặc một lượt với Thái tử hoặc trước hay là sau một vài năm, đặng khi Ngài ra thuyết pháp 

thì mấy vị ấy trở về với Ngài liền.

Nhờ Từ điện và Thần lực của Ngài mà nhiều vị Đệ tử lớn (người ta nói có tới cả ngàn) đắc quả La Hán và nhiều vị Đệ tử nhỏ đắc quả Tu Đà Hườn, Tư Đà Hàm và A Na Hàm.


Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét