Thứ Ba, 28 tháng 1, 2020

Thông điệp của Hy Vọng

Trích: Con Người và các Thể - Annie Besant

...Nhìn khắp nhân loại bằng mắt trần, ta thấy toàn sự suy đồi, đau khổ, vô vọng. Nhưng khi quan sát bằng nhãn quan cao hơn, ta thấy nhân loại xuất hiện duới một phương diện hoàn toàn khác. Thật ra ta vẫn thấy sự đau khổ và suy đồi, nhưng ta biết rằng chúng chỉ tạm thời, chúng thuộc về giai đoạn non trẻ của nhân loại, và nhân loại sẽ vượt qua nó.

Đây là thông điệp của hy vọng mà Minh Triết Thiêng Liêng mang đến cho thế giới tây phương, một thông điệp của sự giải phóng thế giới khỏi mọi thống khổ, không phải trong giấc mơ mà trên thực tế, không phải chỉ là hy vọng suông mà là sự xác quyết.

...Tất cả những kiếp sống chúng ta được nối kết nhau, không kiếp sống nào có thể bị tách rời khỏi những kiếp sống trước và sau nó. Nói cho đúng nghĩa, chúng ta chỉ có một sự sống, trong đó cái mà chúng ta gọi là những kiếp sống, thật ra chỉ là những chuỗi ngày của một sự sống duy nhất ấy. Chúng ta không bao giờ bắt đầu một cuộc sống mới với một tờ giấy trắng, để viết nên một câu chuyện hoàn toàn mới, mà chỉ bắt đầu một chương mới, triển khai từ cốt chuyện cũ. Khi chết, chúng ta không thể vất đi trách nhiệm nhân quả của kiếp vừa qua, cũng như khi đi ngủ chúng ta không thể xóa bỏ những món tiền mà chúng ta có trách nhiệm phải trả của ngày hôm qua. Nếu hôm nay mắc phải nợ nần, ngày mai chúng ta không thể tự do thoát khỏi trả nợ, nó sẽ theo đuổi chúng ta cho đến khi trả xong.

Con người có sự sống không gián đoạn; những kiếp sống trần gian được kết nối nhau, không tách rời. Tiến trình thanh lọc và phát triển cũng liên tục, và phải được thực hiện xuyên qua nhiều kiếp sống liên tục ở thế gian.

...Ta học cách tách rời Chân Ngã khỏi những thể, ‘‘bước’’ ra ngoài dẫn thể, để biết rằng ta vẫn tồn tại ở bên ngoài dẫn thể với một tâm thức rộng mở hơn khi ta còn ở bên trong nó, và ta không có cảm giác tùy thuộc vào nó. Khi đạt được kinh nghiệm này, ta không còn đồng hóa Chân Ngã với những thể, cũng không bao giờ nhầm lẫn ta là chiếc áo mà ta đang mặc.

Sự thông hiểu rõ ràng bằng trí tuệ ở trong tầm với của tất cả chúng ta, chúng ta có thể tập phân biệt giữa Chân Ngã – con người thật – và những thể của nó. Khi làm thế, ta bước ra khỏi ảo tưởng mà phần đông nguời đời còn bị bao bọc. Nhờ đó thái độ chúng ta đối với cuộc sống và thế gian sẽ hoàn toàn thay đổi. Nó sẽ nâng ta lên vùng yên tĩnh, vượt trên những thay đổi vô thường của cuộc đời hữu hạn, cùng những rối ren nhỏ nhặt hàng ngày, để nhận thấy được mối tương quan thật sự giữa cái luôn luôn thay đổi và cái tương đối trường tồn. Ta sẽ cảm nhận sự khác biệt giữa một người ở giữa biển khơi, bị những làn sóng bao phủ, xô đẩy, vùi dập, và một người đứng trên tảng đá vững chắc không hề hấn bởi những làn sóng nhấp nhô bên dưới.

... Con người có thể thúc đẩy sự phát triển tâm thức ở những cõi cao, nếu họ kiên nhẫn, cố gắng và can đảm. Họ phải cố gắng sống nhiều hơn với cái ngã trường tồn, không tiêu phí tư tưởng và năng lượng vào những chuyện tầm phào, không trường tồn của cuộc đời thế tục. Tôi không có ý nói con người phải sống mơ mộng, không thực tế, trở nên một thành viên vô dụng của gia đình và xã hội. Trái lại, con người phải thi hành một cách hoàn hảo mọi trách nhiệm ở cõi trần. Họ không thể làm công việc cẩu thả, không hoàn hảo như người kém phát triển. Đối với họ, trách nhiệm là trách nhiệm, họ phải đền trả lại hoàn toàn khoản nợ mà thế gian đã cung cấp cho họ.

Con người phải hoàn tất mọi trách nhiệm một cách hoàn hảo với tất cả khả năng mình, nhưng niềm vui thích thật sự không đặt vào những sự vật này, và tư tưởng họ không bị ràng buộc vào kết quả của những việc làm này. Ngay sau khi đã hoàn thành bổn phận, tư tưởng họ quay về sự sống trường tồn, thăng hoa năng lực lên cấp độ cao cả, bắt đầu sống ở đó và thẩm định giá trị những điều tầm thường, vô bổ của đời sống thế gian.

Thực hành đều đặn công việc đó, và tự huấn luyện tư tưởng trừu tượng cao cả, con người bắt đầu làm sinh động những đường nối kết trong tâm thức, và mang vào cuộc sống ở cõi thấp tâm thức của chính họ.

...Người muốn thanh lọc thể xác phải tức khắc bắt đầu loại bỏ các thực phẩm không trong sạch, độc hại cho sự cấu tạo những phần tử trong cơ thể. Họ phải kiêng cữ rượu và những thực phẩm có chứa rượu, vì chúng đem vào cơ thể những phân tử rất ô uế. Rượu là thực phẩm do sự thối rữa tạo ra, tự nó không những đáng ghê tởm, mà còn thu hút con người. Sự thu hút này lan truyền đến những người khác cùng sự ham muốn, trong đó có những cư dân vô hình đáng thương hại vất vưởng ở cõi trung giới.

...Bằng tư tưởng cao thượng, thể vía sẽ được thanh lọc, dù ta không để ý đến, sự thanh lọc vẫn thực hiện có hiệu quả.

...Khi tiếp tục làm trong sạch hóa cơ thể bằng cách nuôi dưỡng nó với những thức ăn, thức uống trong sạch, loại trừ những thức ăn ô nhiễm như máu động vật, rượu và các loại thực phẩm bốc mùi hôi, đang tan rã, đồng thời chúng ta cũng làm trong sạch hóa thể vía và thu hút vào nó những chất liệu thanh nhẹ, mịn màng từ cõi trung giới. Sự kiện này không những quan trọng cho cuộc đời hiện tại, mà nó cũng rất quan trọng cho trạng thái sau khi chết, cho tình trạng chúng ta ở cõi trung giới, và cũng là nhân tố quyết định cho loại cơ thể mà chúng ta sẽ có được ở kiếp sau.

...Khi ta thanh lọc hóa thể xác, đồng thời ta cũng thu hút những chất liệu thanh cao cõi trung giới, tạo ra thể vía trong sạch hơn.

...Khi biết được một cách chắc chắn về sự hiện tồn của Chân Ngã, và xác thân chỉ là một bộ y phục có thể mặc vào hay cởi ra tùy ý, nó không phải dụng cụ cần thiết của tư tưởng và sự sống, Người ấy sẽ có một cuộc sống linh hoạt hơn, tư tưởng không bị trở ngại và giới hạn bởi thể xác.

Khi đạt đến giai đoạn này, con người bắt đầu hiểu biết nhiều hơn về thế giới, trong đó có sự sống của chính họ, và thấy rõ hơn mục đích, cũng như khả năng cao cả của nhân loại. ...Con người trở nên linh hoạt trên những cõi cao, rộng rãi, sử dụng được những năng lực mạnh mẽ hơn, và trên tất cả là họ nhận mình như một người phụng sự các Bậc Thánh Thiện trong việc trợ giúp nhân loại.

Đối với người ấy, sự quan trọng của cuộc sống cõi vật chất có một tỷ lệ hợp lý, không điều gì xảy ra ở cõi trần có thể ảnh hưởng nhiều đến họ như lúc họ chưa nhận biết có một sự sống phong phú đầy đủ hơn. Sự chết của xác thân không làm tổn hại gì cho họ, cũng như cho những người mà họ muốn giúp đỡ. Vai trò của cuộc sống trần gian chỉ như một một phần rất nhỏ trong toàn thể sinh hoạt của con người. Cuộc đời không có vẻ đen tối như trước kia, vì được ánh sáng từ những vùng cao cả chiếu soi.

...Khi bắt đầu hiểu biết một phần nào về nhân thể, chúng ta coi sự tiến hóa như mục đích xác định trong đời sống chúng ta. Chúng ta phải cố gắng suy tưởng một cách không ích kỷ để làm cho nhân thể tăng trưởng và linh hoạt. Con người tiến hóa từ đời này qua đời khác, từ thế kỷ này qua thế kỷ khác, từ thiên niên kỷ này qua thiên niên kỷ khác. Chúng ta có thể cố ý thúc đẩy sự tiến hóa này bằng cách làm việc hòa điệu với ý chí thiêng liêng, và thực hành mục đích của kiếp sống chúng ta. Khi được đan vào cấu trúc của nhân thể, không có điều tốt nào sẽ bị mất đi, không điều gì bị tan biến, vì đây là con người thật sự, sống vĩnh viễn.

...Đối với người đã phát triển năng lực, minh triết và tình thương cao thượng, sẽ có ngày họ bước qua một cửa lớn, đánh dấu một giai đoạn nổi bật trên đường tiến hóa, đó là cánh cửa của sự điểm đạo. Người đạo đồ được Đức Thầy hướng dẫn đi xuyên qua khỏi cửa và tiến lên lần đầu tiên vào thể bồ đề, để có được kinh nghiệm về sự đồng nhất hiện tồn giữa những chia rẽ đa dạng của thế giới vật chất. Người đạo đồ cũng nhận thấy sự đồng nhất hiện hữu giữa những chia rẽ đa dạng nơi cõi trung giới và ngay cả cõi trí. Khi vượt lên khỏi những cõi thấp, người đạo đồ khoác vào thể bồ đề, lần đầu tiên có kinh nghiệm về sự đồng nhất và nhận thấy sự chia rẽ chỉ thuộc vào 3 cõi thấp. Họ cảm thấy là một với tất cả, mà tâm thức của chính họ không bị mất; tâm thức họ có thể bành truớng và bao gồm tâm thức mọi người, đúng ra nó trở thành một với những tâm thức khác. Đây là sự hợp nhất mà sau đó con người luôn luôn khao khát có trở lại, sự hợp nhất họ đã cảm nhận rất thật, mà ở những cõi thấp không thể nào có được dù hết sức cố gắng. Kinh nghiệm này vượt quá những giấc mơ cao tột của họ, và họ nhận thấy tất cả nhân loại là một với Bản Ngã thâm sâu nhất của họ.

...Người đã đến trình độ hợp nhất, thời gian lẫn không gian đều bị họ chinh phục, và chúng không còn là rào cản đối với họ. Càng leo lên mỗi giai đoạn cao hơn, con người càng thấy ít rào cản hơn; thí dụ như vật chất thuộc cõi trung giới ít phân chia hơn vật chất cõi trần, và sự ngăn cách giữa một người với các huynh đệ của họ giảm đi rất nhiều. Thể vía di chuyển rất nhanh chóng, có thể nói con người đã chinh phục thời gian và không gian, vì họ đi xuyên qua không gian nhanh đến nỗi họ cảm thấy chúng mất khả năng chia cắt họ và các bạn bè.

Lên đến cõi trí, con người có được năng lực cao hơn. Khi nghĩ đến một nơi chốn, họ hiện diện ngay nơi đó; khi nghĩ đến một người bạn, người bạn hiện diện trước mặt họ. Tâm thức con người vượt quá giới hạn của vật chất, không gian và thời gian, và con người hiện diện bất cứ nơi nào mà họ muốn. Mọi vật mà họ thấy, họ thấy ngay tức khắc vào lúc mà họ chú ý đến chúng. Mọi âm thanh mà họ nghe, họ nghe toàn thể âm thanh như một ấn tượng đơn độc. Vật chất, không gian và thời gian, như được biết đến ở cõi trần, đều không tồn tại ở cõi trí, chuỗi nối tiếp không còn hiện hữu trong ‘‘hiện tại vĩnh cửu’’.

Khi con người lên cao hơn, hàng rào ngăn cách giữa những tâm thức biến mất, họ cảm nhận là một với những tâm thức khác, họ có thể suy nghĩ như người khác suy nghĩ, cảm giác như người khác cảm giác, nhận biết như người khác nhận biết. Con người có thể xâm nhập vào giới hạn của người khác trong một lúc, để hiểu chính xác người ấy đang nghĩ gì, nhưng vẫn giữ trọn ý thức của riêng mình. Họ có thể sử dụng kiến thức thâm sâu hơn để giúp đỡ tư tưởng bị giới hạn, hẹp hòi, bằng cách tự đồng hóa với tư tưởng đó để làm cho nó mở rộng một cách nhẹ nhàng giới hạn của nó. Khi không còn chia cách với những kẻ khác, họ đảm nhận nhiệm vụ mới trong thiên nhiên; họ nhận thấy Chân Ngã là một trong tất cả, và từ cõi đại đồng này họ gởi năng lượng xuống thế gian. Ngay đối với những động vật thấp thỏi, họ cũng có thể cảm nhận được chúng hiện tồn như thế nào trong thế giới, và họ có thể giúp đỡ theo đúng nhu cầu của chúng.

Như thế, họ chinh phục không phải vì họ, mà vì tất cả. Họ đạt được năng lực mạnh mẽ chỉ để phụng sự vạn vật đang ở nấc thang tiến hóa thấp kém hơn. Bằng cách này, họ trở nên tự ý thức khắp nơi trên thế giới, họ có thể học đáp ứng với mọi tiếng kêu bi thương, mọi cảm giác vui sướng hay đau khổ. Khi đạt đến trình độ cao tột này, họ có tất cả, họ là một vị Chân Sư, ‘‘người không còn gì phải học hỏi nữa’’. Không phải ở mỗi lúc, tâm thức của Chân Sư chứa tất cả mọi kiến thức, nhưng không điều gì mà Ngài không biết được khi tâm thức Ngài chú ý vào nó. Trong vòng tiến hóa này, không có gì Ngài không thông hiểu, và như thế Ngài có thể trợ giúp tất cả.

Đó là sự khải hoàn tối hậu của con người.

...Điều bí nhiệm là khi con người phát triển, tâm thức dần dần mở rộng ra để bao gồm càng ngày càng nhiều, trong khi nó trở nên trong sáng hơn, sống động hơn, mà không mất sự nhận thức về chính nó. Khi một điểm đã trở thành một khối hình cầu, khối cầu nhận thấy chính nó là một điểm. Mỗi điểm chứa đựng tất cả, và tự biết nó là một với những điểm khác. Cái bên ngoài được thấy như là sự phản ảnh của cái bên trong. Thực Tại là Sự Sống Duy Nhất, và sự dị biệt chỉ là ảo ảnh cần được khắc phục.

Trích: Con Người và các Thể - Annie Besant


Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét